1776. “Con người khám phá ra tận đáy lương tâm một lề luật mà chính con người không tự đặt ra cho mình, nhưng con người vẫn phải tuân theo lề luật đó. Tiếng nói của lề luật đó luôn luôn kêu gọi con người yêu mến và làm điều tốt cũng như tránh điều xấu. Vào lúc cần thiết tiếng nói ấy âm vang lên trong trái tim con người… Quả thật, con người có một lề luật được Thiên Chúa khắc ghi trong trái tim họ. Lương tâm là hạt nhân bí ẩn nhất và là cung thánh của con người; nơi đây con người ở một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Ngài vang dội trong thẳm sâu lòng họ” (GS 16).
I. PHÁN ĐOÁN CỦA LƯƠNG TÂM
1777. Lương tâm hiện diện trong trái tim của nhân vị (x. Rm 2, 14-16), ra lệnh cho nó vào đúng lúc phải làm lành lánh dữ. Lương tâm cũng phán đoán các lựa chọn cụ thể là chuẩn y những lựa chọn tốt, phản đối những lựa chọn xấu (x.Rm 1, 32). Lương tâm chứng nhận thẩm quyền về chân lý liên quan đến Đấng là sự thiện tối thượng, mà nhân vị cảm nghiệm được sự lôi kéo của Ngài và đón nhận các lệnh truyền của Ngài. Người khôn ngoan khi nghe tiếng lương tâm, có thể nghe tiếng Thiên Chúa nói.
1778. Lương tâm là một phán đoán của lý trí; nhờ đó, nhân vị nhận thức được phẩm chất luân lý của một hành vi cụ thể mình sắp làm, đang làm hay đã làm, con người, trong mọi điều mình nói hoặc làm, buộc phải trung thành theo điều mình biết là chính đáng và trung thực. Con người, nhờ phán đoán lương tâm của mình, cảm thấy và nhận biết những quy định của lề luật thần linh.
“Lương tâm là một lề luật của tinh thần chúng ta, nhưng lại vượt quá tinh thần chúng ta, nó đưa ra cho chúng ta những quy định, nó nói lên trách nhiệm và bổn phận, sự sợ hãi và niềm hy vọng. Lương tâm là sứ giả của Đấng, trong trật tự tự nhiên cũng như trong trật tự ân sủng, nói với chúng ta sau một bức màn, dạy dỗ và hướng dẫn chúng ta. Lương tâm là vị đại diện của Đức Kitô” (Newman, thư gởi quận công Norfolk )
1779. Điều quan trọng là mỗi người phải hiện diện với chính mình, để lắng nghe và tuân theo tiếng lương tâm của mình. Sự đòi hỏi sống nội tâm rất cần thiết, vì đời sống thường dẫn chúng ta đến nguy cơ là chúng ta bị lôi kéo khỏi mọi suy tư, kiểm điểm hay hồi tâm:
“Bạn hãy quay về với lương tâm của bạn, hãy tự vấn lương tâm….thưa anh em, hãy quay về với nội tâm và trong mọi sự anh em làm, hãy nhìn lên chứng nhân là Thiên Chúa”. ( T. Augustino)
1780. Phẩm giá của nhân vị bao hàm và đòi hỏi sự ngay chính của lương tâm. Lương tâm gồm có việc nhận thức các nguyên tắc luân lý việc áp dụng các nguyền tắc vào những hoàn cảnh cụ thể nhờ phân định thực tiễn các lý lẽ và các lợi ích, và cuối cùng việc phán đoán về các hành vi cụ thể phải làm hay đã làm. Chân lý về điều thiện luân lý, đã được lý trí nêu lên, được nhận biết cách thực tiễn và cụ thể nhờ phán đoán khôn ngoan của lương tâm. Người chọn theo phán đoán này được gọi là kẻ khôn ngoan.
1781. Lương tâm cho phép đảm nhận trách nhiệm về những hành vi đã thực hiện. Nếu con người làm điều xấu, phán đoán ngay chính của lương tâm nơi người đó có thể là chứng nhân cho chân lý phổ quát của điều tốt, đồng thời cũng là chứng nhân cho sự xấu xa của việc lựa chọn riêng của người đó. Án lệnh do phán đoán của lương tâm cũng là bảo chứng cho niềm hy vọng và lòng thương xót. Khi xác nhận lỗi lầm đã phạm, lương tâm nhắc nhở chúng ta phải cầu xin ơn tha thứ, phải làm điều tốt và phải không ngừng vun trồng nhân đức nhờ ân sủng của Thiên Chúa:
“Chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa. Vì nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, thì Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta,và Người biết hết mọi sự” (1Ga 3,19-20)
1782. Con người có quyền hành động cách tự do theo lương tâm, để có thể đảm nhận những quyết định luân lý một cách cá vị. “Không được cưỡng bức ai hành động trái với lương tâm của họ. Cũng không được ngăn cản họ hành động theo lương tâm, nhất là trong vấn đề tôn giáo” (DH 3)
II. VIỆC HUẤN LUYỆN LƯƠNG TÂM
1783. Lương tâm phải được trở nên vững chắc hơn và phán đoán luân lý phải được soi sáng. Một lương tâm được huấn luyện tốt thì ngay chính và chân thật. Nó sẽ đưa ra những phán đoán theo lý trí, phù hợp với điều thiện đích thực mà Đấng sáng tạo khôn ngoan muốn. Việc giáo dục lương tâm là cần thiết cho con người, vì họ đang bị chi phối bởi các ảnh hưởng tiêu cực và bị cám dỗ bởi tội lỗi, nên thích làm theo ý riêng hơn và khước từ những đạo lý được đưa ra một cách có thẩm quyền.
1784. Việc giáo dục lương tâm là nhiệm vụ của cả cuộc đời. Ngay từ những năm đầu tiên, việc giáo dục gợi lên cho trẻ em sự nhận biết và thực hành luật nội tâm đã được lương tâm công nhận. Một nền giáo dục khôn ngoan dạy nhân đức, đề phòng và chữa lành con người khỏi sợ hãi, khỏi yêu mình cách mù quáng (tính ích kỷ) và khỏi kiêu căng, khỏi những mặc cảm tội lỗi và thái độ tự mãn, phát sinh từ sự yếu đuối và những lỗi lầm của con người. Việc giáo dục lương tâm bảo đảm cho sự tự do và tạo nên sự bình an trong trái tim.
1785. Trong việc huấn luyện lương tâm, Lời Chúa là ánh sáng soi đường cho chúng ta. Chúng ta phải thấm nhuần Lời Chúa vào trong đức tin, và kinh nguyện, và phải đem ra thực hành; chúng ta cũng phải kiểm điểm lương tâm bằng cách nhìn lên Thập Giá của Chúa; các hồng ân của Chúa Thánh Thần trợ giúp chúng ta, chúng ta còn được giúp đỡ bởi lời chứng và lời khuyên nhủ những người khác và được hướng dẫn bởi đạo lý của Hội Thánh được đưa ra một cách có thẩm quyền (DH 14).
III. CHỌN LỰA THEO LƯƠNG TÂM
1786. Lương tâm đứng trước một chọn lựa luân lý, có thể đưa ra, hoặc một phán đoán ngay chính phù hợp với lý trí và lề luật thần linh, hoặc trái lại, một phán đoán sai lầm, xa rời lý trí và lề luật thần linh.
1787. Con người đôi khi gặp những hoàn cảnh làm cho phán đoán luân lý không được chắc chắn và khó quyết định. Tuy nhiên, họ phải luôn tìm kiếm điều đúng và điều tốt, và phân định ra thánh ý của Thiên Chúa được diễn tả trong lề luật thần linh.
1788. Để đạt được điều này, con người phải cố gắng giải thích các dữ kiện của kinh nghiệm và các dấu chỉ của thời đại, nhờ đức khôn ngoan, nhờ những lời khuyên bảo của những người khôn ngoan và nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần và của các hồng ân của Ngài.
1789. Một số quy tắc được áp dụng trong mọi trường hợp:
– Không bao giờ được phép làm điều xấu để đạt tới một điều tốt.
– Khuôn vàng thước ngọc: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” ( Mt 7,12; x. Lc 6,31;Tb 4,15).
– Đức mến luôn đòi hỏi tôn trọng người lân cận và lương tâm của họ. “như vậy phạm đến anh em và làm thương tổn lương tâm yếu đuối của họ là phạm đến Đức Kitô” (1Cr 8,12). “Tốt nhất là tránh những gì gây cớ cho anh em mình vấp ngã” (Rm 14,21).
IV. PHÁN ĐOÁN SAI LẦM
1790. Con người phải luôn tuân theo phán đoán chắc chắn của lương tâm mình. Nếu chủ ý hành động nghịch với phán đoán đó, con người tự kết án chính mình. Nhưng có thể lương tâm ở trong tình trạng thiếu hiểu biết và đưa ra những phán đoán sai lầm về các hành vi phải làm hoặc đã làm.
1791. Sự thiếu hiểu biết này thường có thể được quy cho trách nhiệm cá vị. Điều đó xảy ra: “khi con người ít lo tìm kiếm điều thật và điều tốt, cũng như khi vì thói quen phạm tội mà lương tâm hầu như bị mù quáng” (x.GS 16). Trong các trường hợp đó, nhân vị bị quy tội vì điều xấu nó đã làm.
1792. Sự thiếu hiểu biết Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài, các gương xấu của kẻ khác, sự nô lệ các đam mê; việc đòi hỏi một sự tự lập hiểu theo nghĩa xấu về lương tâm, việc khước từ thẩm quyền và đạo lý của Hội Thánh, sự thiếu hối cải và bác ái có thể là nguồn gốc của những lệch lạc của phán đoán trong thái độ luân lý.
1793. Trái lại, nếu sự thiếu hiểu biết không thể vượt thắng được, hoặc nếu phán đoán sai lạc không do trách nhiệm của chủ thể luân lý, thì nhân vị không thể bị qui tội về điều xấu nó đã làm. Tuy nhiên, điều xấu ấy vẫn là điều xấu, một khiếm khuyết, một sự vô trật tự. Vậy cần thiết là phải làm sao để lương tâm được sửa chữa khỏi những sai lầm của nó.
1794. Lương tâm tốt và trong sạch được soi sáng bởi đức tin chân chính, vì đức mến xuất phát từ “một tâm hồn trong sạch, một lương tâm ngay thẳng và một đức tin không giả hình” (1Tm 1,5); (x. 1Tm 3,9; 1Tm 1,3; 1P 3,23; Cv 24,16).
“Lương tâm ngay thẳng càng chiếm ưu thế thì các nhân vị và các tập thể càng tránh được sự quyết định mù quáng và càng nỗ lực sống phù hợp với những quy định khách quan của luân lý” (x. GS 16 ).
TÓM LƯỢC
(Trích bản toát yếu sách giáo lý của Hội Thánh Công Giáo)
1. Lương tâm là gì?
T. Hiện diện trong sâu thẳm lòng người, lương tâm là một phán đoán của lý trí, vào đúng lúc, thúc đẩy con người làm lành lánh dữ. Nhờ lương tâm, con người nhận thức được phẩm chất luân lý của một hành vi sẽ làm hay đã làm, và đảm nhận trách nhiệm về hành vi đó. Khi lắng nghe tiếng nói của lương tâm, người khôn ngoan có thể nghe được tiếng Thiên Chúa nói với mình.
2. Phẩm giá con người đòi buộc điều gì đối với lương tâm?
T. Phẩm giá của con người đòi hỏi sự ngay chính của lương tâm, có nghĩa là lương tâm phải phù hợp với cái gì là đúng và tốt theo lý trí và Lề luật của Thiên Chúa. Căn cứ vào phẩm giá nhân vị đó, con người không thể bị ép buộc phải hành động nghịch lại với lương tâm mình, cũng như không thể bị ngăn cản, trong các giới hạn của công ích, hành động theo lương tâm mình, nhất là trong lĩnh vực tôn giáo.
3. Làm thế nào để đào tạo lương tâm ngay thẳng và chân thật?
T. Lương tâm ngay thẳng và chân thật được đào tạo qua giáo dục, qua việc thấm nhuần Lời Chúa và các giáo huấn của Hội Thánh. Lương tâm được các hồng ân Chúa Thánh Thần nâng đỡ và được các lời khuyên bảo của những người khôn ngoan trợ giúp. Ngoài ra, việc cầu nguyện và xét mình cũng đóng góp rất nhiều vào việc đào tạo luân lý.
4. Đâu là những quy tắc mà lương tâm luôn phải theo?
T. Có ba quy tắc căn bản:
1. Không bao giờ được làm điều xấu để đạt tới điều tốt;
2. Khuôn vàng thước ngọc: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta” (Mt 7,12);
3. Đức ái Kitô giáo luôn đòi hỏi tôn trọng tha nhân và lương tâm của họ, tuy vậy không có nghĩa là chấp nhận là tốt một điều theo khách quan vốn là xấu.
5. Lương tâm có thể đưa ra những phán đoán sai lầm không?
T. Con người phải luôn tuân theo phán đoán chắc chắn của lương tâm mình; nhưng lương tâm cũng có thể đưa ra những phán đoán sai lầm, vì những nguyên nhân nhiều khi do lỗi của con người. Tuy nhiên, người ta không thể quy trách nhiệm cho người thực hiện điều xấu vì sự thiếu hiểu biết ngoài ý muốn, cả khi đó là một điều xấu khách quan. Chính vì thế, con người phải vận dụng hết mọi khả năng để sửa lại những sai lầm của lương tâm.