“Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian,
thì đã yêu thương họ đến cùng”.
(Ga 13,1)
BÀI ĐỌC I: Xh 12, 1-8. 11-14
“Những chỉ thị về bữa Tiệc Vượt qua”.
Trích sách Xuất Hành.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê và Aaron ở đất Ai-cập rằng: Tháng này các ngươi phải kể là tháng đầu năm, tháng thứ nhất. Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Israel rằng: “Mùng mười tháng này, ai nấy phải bắt một chiên con, mỗi gia đình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con chiên, thì phải mời người láng giềng đến nhà cho đủ số người để ăn một con chiên. Chiên đó không được có tật gì, phải là chiên đực, được một năm. Có bắt dê con cũng phải làm như thế. Vậy phải để dành cho đến ngày mười bốn tháng này, rồi vào lúc chập tối, toàn thể cộng đồng con cái Israel sẽ giết nó, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Đêm ấy sẽ ăn thịt nướng với bánh không men và rau đắng. Phải ăn như thế này: Phải thắt lưng, chân đi dép, tay cầm gậy và ăn vội vã: vì đó là ngày Vượt Qua của Chúa. Đêm ấy Ta sẽ đi qua xứ Ai-cập, sẽ giết các con đầu lòng trong xứ Ai-cập, từ loài người cho đến súc vật, và Ta sẽ trừng phạt chư thần xứ Ai-cập: vì Ta là Chúa. Máu bôi trên nhà các ngươi ở, sẽ là dấu hiệu; và khi thấy máu, Ta sẽ đi qua mà tha cho các ngươi, và các ngươi sẽ không bị tai ương tác hại khi Ta giáng hoạ trên xứ Ai-cập. Các ngươi hãy ghi nhớ ngày ấy, làm lễ tưởng niệm, và phải mừng ngày đó trọng thể kính Thiên Chúa. Các ngươi sẽ lập lễ này để mừng vĩnh viễn muôn đời”.
ĐÁP CA: Tv 115, 12-13. 15-16bc. 17-18
Chén chúc tụng là sự thông hiệp Máu Chúa Kitô
Xướng:
1) Tôi lấy gì dâng lại cho Chúa để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho tôi? Tôi sẽ lãnh chén cứu độ, và tôi sẽ kêu cầu danh Chúa. – Đáp.
2) Trước mặt Chúa, thật là quý hoá cái chết của những bậc thánh nhân Ngài. Con là tôi tớ Ngài, con trai của nữ tỳ Ngài, Ngài đã bẽ gãy xiềng xích cho con. – Đáp.
3) Con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa. Con sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài. – Đáp.
BÀI ĐỌC II: 1 Cr 11, 23-26
“Mỗi khi anh em ăn và uống, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh em thân mến, phần tôi, tôi đã lãnh nhận nơi Chúa điều mà tôi đã truyền lại cho anh em, là Chúa Giêsu trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: “Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con: Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén, và phán: “Chén này là Tân ước trong Máu Ta; mỗi khi các con uống, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”. Vì mỗi khi anh em ăn bánh và uống chén này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết, cho tới khi Chúa lại đến”.
TIN MỪNG: Ga 13, 1-15
1 Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. 2 Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. 3 Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa.
4 Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, 5 rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. 6 Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?” 7 Chúa Giêsu đáp: “Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu”. 8 Phêrô thưa lại: “Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con”. Chúa Giêsu bảo: “Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy”. 9 Phêrô liền thưa: “Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa”. 10 Chúa Giêsu nói: “Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu”.11 Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: “Không phải tất cả các con đều sạch đâu”.
12 Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: “Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? 13 Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. 14 Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. 15 Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con”.
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
THIÊN CHÚA YÊU ĐẾN CÙNG
Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng. (Ga 13,1)
Suy niệm: Yêu ai nửa vời thì ta giữ lại cho mình thật nhiều, mình phải được hơn là mất. Trái lại, yêu ai đến cùng, ta không còn dè giữ nữa, mà cho đi tất cả. Yêu nhân loại đến cùng, Đức Giê-su cho đi những gì quý giá nhất, làm điều gì tốt đẹp nhất mà một vị Thiên Chúa làm người có thể thực hiện được. Ngài đã làm bốn điều sau đây để cho ta thấy thế nào là yêu đến cùng: rửa chân cho các môn đệ, lập Bí tích Thánh Thể, chết trên thập giá, và sống lại hiển vinh. Rửa chân cho môn đệ là hạ mình, đặt người yêu mến lên trên mình, chi phối cuộc đời mình. Lập Bí tích Thánh Thể để ở lại với con người mọi ngày cho đến tận thế một cách gần gũi, thân thiết, hữu hình. Chết trên thập giá minh chứng cho tình yêu hy sinh, tự hiến sự sống cho người mình yêu thương. Sống lại để đưa con người lên địa vị cao sang, thừa hưởng gia nghiệp Nước Trời.
Mời Bạn: Chiêm ngắm từng cử chỉ của Chúa chúng ta khi Ngài hạ mình xuống rửa chân cho các môn đệ: cởi áo choàng, lấy khăn mà thắt lưng, đổ nước vào chậu, rửa chân cho các ông, lấy khăn mà lau… để bạn cảm nghiệm được thế nào là tình Ngài yêu thương đến độ trút bỏ cả vinh quang lẫn địa vị của một vị Thiên Chúa để hiến thân cho chúng ta.
Sống Lời Chúa: Suy gẫm bốn điều Thiên Chúa vì yêu đến cùng đã làm cho mình, tôi nỗ lực đáp trả lại bằng việc dành nhiều thời gian cho Chúa hơn trong đời thường của mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, con cảm nghiệm thế nào là yêu đến cùng của Chúa với nhân loại, và riêng với con. Xin giúp con biết cách đáp trả với cả con tim.
B/ Lm. Phaolô Vũ Đức Vượng
THỨ NĂM TUẦN THÁNH
Ga 13, 1-15
Thứ năm Tuần Thánh là ngày lễ của các linh mục và cũng là ngày lễ của Tình yêu. Vì thế linh mục phải là người của Tình Yêu. Và người giáo dân cũng tham dự vào chức vụ tư tế của Chúa Giêsu, nên cũng không được phép miễn trừ cho mình bổn phận tình yêu. Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giê-su truyền chức cho các linh mục:”Các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Thầy”. Vì thế mỗi ngày, trên khắp hoàn cầu, không có giây phút nào là không có thánh lễ, không có giây phút nào là không có linh mục và giáo dân cử hành bí tích Thánh Thể, Bí Tích tình yêu.
Người đã yêu thương họ đến cùng.”
Chúa Giêsu đã Yêu thương đến cùng trong suốt cuộc đời dương thế của Ngài. Như thế thì người giáo dân và nhất là các linh mục, suốt đời chỉ sống vì tình yêu và cho tình yêu như Chúa Giêsu đã sống: Yêu Chúa và yêu anh em mình. Mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của chúng ta phải cho người ta thấy được điều đó.
Yêu cho đến cùng là chết cho tình yêu như Chúa Kitô: những hy sinh lớn hay nhỏ vì tình yêu trong cuộc sống, làm cho chúng ta nên giống Chúa Kitô, Đấng đã chết cho tình yêu.
Vì muốn Yêu cho đến cùng mà Chúa Giêsu đã tự hạ, quì xuống rửa chân cho các môn đệ trong bữa Tiệc Ly, giống như một người tôi tớ. Nếu vậy thì tình yêu của người linh mục cũng như của giáo dân phải là một tình yêu khiêm tốn, phục vụ và kín đáo: “Anh em hãy rửa chân cho nhau”.
Vì muốn yêu cho đến cùng, cho đến tận thế, mà Chúa Giêsu đã lập Bí Tích Thánh Thể để ở lại với chúng ta cho đến ngày sau cùng. Vì vậy, cho đến hơi thở cuối cùng, người linh mục cũng như kitô hữu phải là người của tình yêu.
Vì muốn yêu cho đến cùng mà Chúa Giêsu đã để cho quân lính đâm thâu trái tim, đổ hết giọt máu cuối cùng cho nhân loại.
Vì muốn yêu thương đến cùng mà Chúa hằng kêu gọi và kiên trì không mệt mỏi, chờ đợi chúng ta ăn năn thống hối.
“Anh em hãy rửa chân cho nhau.”
“Hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
Một trong hai dấu chỉ của một tình yêu đích thực, đó là khiêm nhường. Vì thế mà các Đức Gíao Hoàng. thường xưng mình là tôi tớ của các tôi tớ. Đức Gíao Hoàng Phaolô VI đã bán đấu giá chiếc mũ triều thiên ba tầng bằng vàng dát ngọc của các Giáo hoàng trước để lại, để nói lên rằng: Giáo Hội không phải là quyền lực, không phải là triều thiên và ngai vàng, nhưng là tôi tớ, là phục vụ. Mỗi thứ Năm Tuần Thánh, chúng ta lặp lại cử chỉ rửa chân, để nói với linh mục cũng như giáo dân rằng chúng ta phải sống yêu thương và phục vụ mọi người trong khiêm tốn như Chúa Giêsu: “Anh em hãy rửa chân cho nhau.” Trong nghi lễ rửa chân, ngoài nước ra còn có tình yêu, vì chỉ có tình yêu mới rửa được con người, mới đổi mới được con người.
“Anh em hãy rửa chân cho nhau”.
“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”: Đó là tất cả ý nghĩa của Bữa tiệc Ly, và đó cũng là những đòi hỏi của Phúc Âm, là lời mời gọi của Chúa Giêsu gởi đến mỗi người chúng ta trong thánh lễ nầy.
Chúng ta phải bắt tay vào việc và đóng góp vào câu chuyện được kể lại trong Phúc Âm. Có thể chúng ta chưa nắm bắt được ý nghĩa của việc rửa chân nhưng hy vọng chúng ta sẽ tham gia mỗi lúc một chút. Chúng ta nên phác họa lại bức tranh đó bằng cách bắt đầu sử dụng bất cứ quyền hành nào mà chúng ta có, xử dụng bất cứ địa vị được tín nhiệm nào mà chúng ta nắm giữ, xử dụng bất cứ năng khiếu nào mà chúng ta được thiên phú, và chúng ta hãy dùng các thứ đó để phục vụ kẻ khác. Phục vụ kẻ khác là chúng ta bắt đầu rửa chân một cách can đảm và duyên dáng theo cung cách của Chúa Giêsu.
Rửa chân, Phục vụ kẻ khác, không bao giở dễ dàng cả. Điều đó đi ngược lại bản năng tự nhiên của chúng ta. Bản năng tự nhiên là ai cũng muốn người khác phục vụ mình. Vì thế muốn sống ngược lại với bản năng tự nhiên để phục vụ kẻ khác, chỉ có cách duy nhất là bắt chước gương khiêm nhường của Chúa Giêsu: “Thầy đã rửa chân cho chúng con, chúng con cũng hãy rửa chân cho nhau”.
C/ Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
BẰNG CHỨNG TÌNH THƯƠNG
Qua Lời Tổng Nguyện của Thánh Lễ Thứ Năm Tuần Thánh này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Trong Bữa Tiệc Ly trọng đại, trước ngày tự hiến thân chịu khổ hình, Ðức Giêsu đã trối cho Hội Thánh một hy lễ mới: muôn đời tồn tại, làm bằng chứng tình thương của Người. Chiều nay, chúng ta đến tham dự yến tiệc cực thánh, như lời Người truyền dạy, xin Chúa cho tất cả chúng ta được đầy tràn tình yêu và sức sống viên mãn của Người.
Bằng chứng tình thương mà Đức Giêsu đã để lại cho chúng ta là bài học vâng lời Chúa Cha cho đến cùng. Trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thư gửi tín hữu Hípri cho thấy: Dầu là Con Thiên Chúa, Đức Kitô đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục, và Người đã trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người. Khi còn sống kiếp phàm nhân, Người đã lớn tiếng dâng lời nguyện xin và đã được nhậm lời, vì Người đã tôn kính Thiên Chúa.
Bằng chứng tình thương mà Đức Giêsu đã để lại cho chúng ta là hình ảnh Con Chiên chịu sát tế để cứu chúng ta khỏi chết và đưa chúng ta đến sự sống đời đời. Trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, Đức Cha Mêliton đã nói: Chính Người là con chiên không kêu một tiếng, là con chiên bị giết, sinh ra từ chiên mẹ xinh đẹp là Đức Maria. Người là con chiên được lấy ra trong bầy để mang đi giết, bị sát tế vào buổi chiều, rồi ban đêm được mai táng. Trên thập giá, Người không bị đánh giập ống chân; dưới lòng đất, Người không bị tiêu tan. Người đã trỗi dậy từ trong kẻ chết và làm cho con người trong mồ sâu sống lại.
Bằng chứng tình thương mà Đức Giêsu đã để lại cho chúng ta là Tiệc Vượt Qua. Trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Xuất Hành đã ghi nhận lại những chỉ thị về Bữa Ăn Vượt Qua với lệnh truyền: Các ngươi phải lấy ngày đó làm ngày tưởng niệm, ngày đại lễ mừng Đức Chúa. Qua mọi thế hệ, các ngươi phải mừng ngày lễ này: đó là luật quy định cho đến muôn đời. Trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô cũng nhắc nhở: Mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 115, vịnh gia đã cho thấy: Khi nâng chén chúc tụng, ta được dự phần vào Máu Đức Kitô. Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho? Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ, và kêu cầu thánh danh Đức Chúa.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em. Trong bài Tin Mừng, thánh Gioan đã cho thấy: Bài học yêu thương và phục vụ mà Đức Giêsu để lại cho các môn đệ của mình, qua trình thuật Rửa Chân. Thánh Gioan cố tình dùng chỉ 6 động từ (con số 6 là con số chưa trọn vẹn), để nhắc nhớ rằng: Thầy là Thầy, là Chúa, mà Thầy còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau, phải yêu thương phục vụ lẫn nhau, như Thầy đã nêu gương cho anh em, nhưng, gương yêu thương của Thầy chỉ được hoàn tất vào cuối bữa ăn này, với hành động thứ 7: là trao hiến chính Thịt Thầy, Máu Thầy cho anh em, và anh em phải làm việc này mà nhớ đến Thầy. Nhớ đến Thầy không phải là gợi nhớ về một nhân vật lịch sử, nhưng, chính là hiện thân hóa, để trở nên giống như Thầy: đổ máu mình ra để yêu thương và phục vụ. Ước gì khi chiêm ngắm biến cố Đức Giêsu rửa chân cho các môn đệ, chúng ta hãy để cho mình thật lắng đọng, chìm vào trong từng cử chỉ yêu thương của Chúa, và nhất là, với quyết tâm thực hành cho bằng được hành động cuối cùng của Chúa, là dám đổ máu mình ra để yêu thương và phục vụ như Chúa, hầu ơn cứu độ của Chúa được tỏa lan đến khắp mọi người và khắp mọi nơi. Ước gì được như thế!
D/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
RỬA CHÂN CHO NHAU
Trong thánh lễ Tiệc ly, chiều Thứ Năm, Tuần Thánh thường có nghi thức rửa chân nhằm tái hiện cử chỉ phục vụ yêu thương mà chính Chúa Giêsu đã làm cho các môn đệ và Ngài truyền dạy các môn đệ: “Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau”.
Theo tục lệ của người Do thái vào thời Chúa Giêsu, một trong những nghi thức đón khách vào nhà và đồng bàn ăn uống là rửa chân cho người ấy. Rửa chân cho chủ nhà và khách dự tiệc là công việc của các đầy tớ. Vậymà trong bữa tiệc ly chính Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ, chính Người làm công việc của người đầy tớ, chính Người tự nguyện trở nên người nô lệ phục vụ các môn đệ bằng tất cả lòng yêu mến. Người đảo ngược vị thế: ông chủ phục vụ đầy tớ, đầy tớ được ông chủ phục vụ. Đấng Tạo Thành quỳ xuống rửa chân cho loài thụ tạo. Thật lạ lùng quá! Tình yêu của Thiên Chúa làm người. Bởi vì “Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình, những kẻ còn ở trong thế gian, và Người yêu họ đến cùng”. Tình “yêu thương đến cùng”của Chúa Giêsu tỏ lộ bằng suốt cuộc đời phục vụ đến nỗi giời đây tự hiến dâng mạng sống để chuộc tội muôn người.
Chữ phục vụ ở đây mang một ý nghĩa sâu sắc. Phục: là lạy, là quỳ gối. Vụ: là công việc. Phục vụ là quỳ gối xuống mà làm với tất cả lòng yêu mến. Trong các tôn giáo người ta gọi là giúp đỡ, từ bi, bố thí… ngoài đời người ta gọi là làm từ thiện nhưng dường như những từ ngữ này không thể truyền tải hết ý nghĩa. Vì thế, Phục vụ có thể coi là “đặc sản” của đạo Công giáo chúng ta. Bởi lẽ chính Chúa Giêsu – Ngôi Hai Thiên Chúa đã tự hạ mình xuống làm một con người, làm một người nô lệ; phục xuống rửa chân cho từng người, từng người một, không phải chỉ có một lần mà là suốt cuộc đời, Ngài đã phục xuống cùng chia sẻ kiếp người buồn vui, nghèo đói, gian nan, khốn khổ của chúng ta, đến nỗi bằng lòng chết đi để cho chúng ta được sống. Đó là bằng chứng Ngài đã yêu thương chúng ta đến cùng.
Tình yêu là một thực tại huyền nhiệm người ta không thể diễn tả hết ý nghĩa bằng lời nói nên đã mượn những cử chỉ, hình ảnh biểu tượng để diễn tả như: 2 trái tim chồng lên nhau, trái tim bị mũi tên xuyên qua, hay dùng bông hồng biểu tượng cho tình yêu. Trong bông hồng làm gì có tình yêu.Thế nhưng khi một người thanh niên thành tâm trao bông hồng cho người bạn gái thì được hiểu là anh đang bày tỏ tình yêu cô gái (xin nói rõ là trao bông hồng với tấm lòng thành, vì có kẻ trao bông hồng nhưng không trao tình yêu. Chẳng hạn Giuđa trao nụ hôn cho Chúa Giêsu nhưng không trao tình yêu…). Tương tự như thế cử chỉ Chúa Giêsu tự nguyện quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ là cử chỉ biểu đạt tình yêu thương đến cùng. Lúc đầu, thánh Phêrôchưa hiểu ra điều này nên không muốn chấp nhận nghịch lý: “Thầy mà rửa chân cho con sao, không đời nào con chịu đâu!”. Vì rửa chân là nhiệm vụ của nô lệ với ông chủ. Xưa nay chưa hề có một vị thầy nào cúi xuống rửa chân cho môn đệ của mình. Thật, Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta vô cùng nên Ngài không ngần ngại quỳ xuống phục vụ rửa chân cho chúng ta. Nhưng hơn thế nữa, Ngài còn hy sinh chịu chết trên Thánh giá và lấy chính Thịt Máu Ngài làm thức ăn để cho chúng ta được sống đời đời. Đó là bằng chứng Chúa yêu ta “đến cùng”, không còn cách nào hơn được nữa.
“Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau…”, nghĩa là hãy yêu thương nhau “đến cùng” – “đến chết”. Theo gương Chúa chúng ta hãy rửa chân cho nhau bằng cách tha thứ cho nhau, rửa chân cho nhau bằng những lời khích lệ an ủi nhau, rửa chân cho nhau bằng cách thăm viếng giúp đỡ các cụ già cả, các anh chị em bệnh tật cô đơn không nơi nương tựa… Chúng ta phải yêu thương họ “đến cùng” bằng lời cầu nguyện tha thiết, bằng sự phục vụ quên thân, như chính Chúa đã nêu gương cho chúng ta.
E/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
YÊU LÀ TRAO BAN
Thánh Gioan nói: “Thiên Chúa là Tình yêu” (1Ga 4, 10), Ngài là nguồn gốc tình yêu nên Ngài ban cho ta có tình yêu để yêu Ngài và yêu nhau. Chính vì thế Ngài nhắc lại lời Chúa Giêsu: “Đây là giới răn của Thầy: các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15, 12).
Không ai có thể định nghĩa được tình yêu mà chỉ để cho con tim cảm nghiệm được nó. Hoặc có theo định nghĩa thần học thì yêu là “diffusivum sui boni”: thông ban sự tốt lành của mình cho người khác; do đó, ta sẽ dễ hiểu được lời của thánh Gioan tông đồ: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết tình yêu là gì: đó là Đức Kitô phó mạng vì chúng ta” (1Ga 3, 16)
I.Tình Yêu Của Thiên Chúa
Thánh Gioan tông đồ khẳng định rằng Thiên Chúa là tình yêu nên mọi tình yêu phải bắt nguồn từ Ngài và cũng phải qui hướng về Ngài như một nguồn suối duy nhất. Nếu tình yêu của chúng ta bắt nguồn từ Ngài thì chúng ta cũng phải yêu Ngài. Chính vì thế Ngài nói: “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức ngươi và hãy yêu anh em như chính mình” (Mt 28, 37. 39). Ngoài ra, Chúa Giêsu còn nhắc nhở tình yêu này cách rõ ràng và mạnh mẽ hơn: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 13, 24; 15, 12).
Trong tuần thánh này và hôm nay chúng ta hãy suy niệm về tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người trong công cuộc cứu chuộc này. Tình yêu ấy đã được thánh Gioan tông đồ ghi lại trong Tin Mừng: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người xuống trần gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 3, 16-17).
II.Tình Yêu Của Đức Kitô
Nếu đọc đoạn thư của thánh Phaolô tông đồ gửi cho tín hữu Philipphê, chúng ta mới thấy Đức Giêsu yêu thương chúng ta đến mức nào: “Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nhất quyết giữ lấy địa vị ngang hàng với Thiên Chúa mà lại trút bỏ vinh quang của Thiên Chúa, lại còn mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống người phàm như chúng ta. Hơn nữa, Ngài còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và còn muốn nhận lấy cái chết ô nhục trên thập giá” (Pl 2, 6-11).
Ta thử hỏi: vì lý do nào mà Chúa đã xuống thế làm người chịu chết chuộc tội cho chúng ta? Có lẽ không có câu trả lời nào khác mà chỉ có thể nói vì yêu thương chúng ta: “Không có tình yêu nào lớn lao cho bằng mối tình của kẻ chết vì người mình yêu” (Ga 15, 13).
Ngoài ra, như người ta thường nói: “yêu nhau thì muốn kết hợp với nhau”. Đức Giêsu vì yêu chúng ta, không những Ngài đã hy sinh chết trên thập giá mà còn muốn ở cùng ta mọi ngày cho đến tận thế, cho nên Ngài đã thiết lập bí tích Thánh Thể.
III.Thánh Thể, Bí Tích Của Tình Yêu
Thánh Phaolô tông đồ trong thư gửi cho tín hữu Côrintô nói: “Chúa Giêsu trong đêm bị nộp, Người cầm lấy bánh và tạ ơn, bẻ ra và phán: “Các con hãy lãnh nhận mà ăn, này là mình Thầy sẽ bị nộp vì các con: các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” (1Cr 11, 23). Chúa Giêsu đã biến Mình Máu Ngài làm của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta. Ngài chỉ có thể ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế trong bí tích Thánh Thể. Chúa Giêsu hiện diện trong phép Thánh Thể không phải là sự hiện diện tượng trưng nhưng là sự hiện diện thực sự với mình máu, với cả nhân tính và thần tính của Ngài.
Động cơ nào đã thúc đẩy Đức Giêsu hành động như vậy? Đó là tình yêu! Đức Giêsu đã yêu chúng ta hết mức, Ngài đã tự vắt cạn kiệt con người của Ngài để phục vụ người khác, không còn gì để mà cho nữa mà chỉ còn cách là biến chính thịt máu mình làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Đặc tính của tình yêu là muốn cho đi:
Yêu nhau cởi áo cho nhau,
Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay (ca dao)
Cho đi là một sự mất mát, mất mát là một hy sinh, mà hy sinh là đau khổ, nhưng đau khổ vì tình yêu lại là một sự sung sướng vì đem lại niềm vui cho người mình yêu. Có một sự tương quan biện chứng giữa đau khổ và tình yêu, giữa mất và còn: hễ mất cái này thì còn cái kia. Điều kiện ắt có là hễ muốn còn cái này thì phải mất cái kia như hạt lúa phải thối đi, để cho những bông lúa vàng nuôi sống con người. Con vật phải chết đi mới đem lại lương thực cho con người. Sự sống của con vật cũng như của thảo mộc phải mất đi để bảo đảm sự sống của con người.
Hy sinh cho người yêu những gì càng thiết yếu cho mình bao nhiêu thì quà tặng đó càng có giá trị. Thánh Têrêsa Calcutta nói: “Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với chúng ta, thì đó mới thật là món quà”. Đức Giêsu không những đã trao ban mọi vinh quang trên trời, lại còn trao ban cả con người của Ngài thì món quà đó quí giá dường nào (x. Mt 26, 26-28).
Truyện: Giới Tử Thôi cắt thịt đùi mình
Trên bước đường lưu vong, trốn ra nước ngoài, Công tử Trùng Nhĩ và bọn bề tôi trải qua rất nhiều cam go, lầm than, đói khổ. Không tiền bạc, hết lương thực, bọn người này phải đi ăn xin. Một hôm đói quá, đói đến lả người, cả bọn cơ hồ không còn đi được nữa. Trùng Nhĩ phải kiếm gốc cây có bóng mát gối đầu vào đùi Hồ Mao mà nằm. Bọn bề tôi bảo nhau đi bứt rau sam về luộc ăn. Trùng Nhĩ nuốt không trôi! Bỗng Giới Tử Thôi mang một bát thịt nóng hổi đến dâng.
Trùng Nhĩ ăn ngon lành! Ăn xong, khoẻ khoắn liền hỏi Giới Tử Thôi:
– Nhà ngươi lấy đâu được thịt ngon như thế?
Giới tử Thôi chỉ vào đùi mình, thưa:
– Ấy là thịt đùi của tôi đó. Tôi nghe rằng: người hiếu tử bỏ thân thờ cha, người trung thần bỏ thân để thờ vua. Nay Công tử đói không có gì ăn nên tôi phải cắt thịt đùi dâng Công tử.
Trùng Nhĩ ứa nước mắt, nói:
– Ân này, biết bao giờ ta đáp được.
(Thanh Lan Võ ngọc Thành, Nhân vật Đông châu, 1968, tr 324- 325).
IV.Thánh Thể, Bài Học Cho Ta
Suy niệm về việc Chúa Giêsu lập Bí tích Thánh Thể để làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta và muốn ở với chúng ta hằng ngày cho đến tận thế trong phép Thánh Thể, chúng ta có thể rút ra được những bài học cụ thể để áp dụng vào đời sống hằng ngày.
1.Yêu là trao ban
Một trong các đặc tính của tình yêu là trao ban, là cho đi. Yêu thì không muốn giữ cho mình mà muốn chia sẻ cho người khác. Chính trong việc cho đi mà người ta tìm được hạnh phúc trong tình yêu:
“Không khi nào người ta yêu như người ta đã được yêu, vì vậy muốn đạt được hạnh phúc trong tình ái,
chúng ta phải cho tất cả mà không đòi hỏi gì cả” (Paul Bourget).
Nếu tu viện trưởng Saint-Pierre quả quyết rằng: “Yếu tính của mọi tôn giáo, nền tảng của mọi chân lý, vương miện của mọi nhân đức căn cứ trên sự CHO và tha thứ” thì thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu đã thực hiện trong tình yêu đối với Chúa Giêsu trong mấy vần thơ do thánh nữ sáng tác:
Sống yêu đương chính là cho tất cả,
Trên đời này không đòi hỏi công lao.
Không tính toán, không kể cho là bao,
Vì đã yêu có khi nào suy tính (Têrêsa Hài đồng)
2.Trao ban là hy sinh
Tục ngữ Tây phương nói: “Partir c’est mourir un peu”: ra đi là chết trong lòng một ít. Lìa xa nhau là một sự hy sinh, hy sinh làm ta đau khổ, và đau khổ được coi như là chết trong lòng một ít. Vậy cho đi là cái gì đó phải lìa xa ta làm cho ta phải hy sinh, hay nói cách khác là chết trong lòng một ít. Tình yêu chân thật đòi hỏi phải hy sinh, mà hy sinh càng lớn thì tình yêu càng cao như Pierre l’Ermite nói: “Nếu biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất nước hy sinh vô vị lợi, đó là tình yêu thật”.
3.Trao ban là phục vụ
Trao ban là cho đi, cho đi cái mình có và cái đó không còn thuộc về mình nữa mà thuộc về người khác. Như vậy, cho đi là chỉ nhằm phục vụ, phục vụ là nhằm mưu cầu hạnh phúc cho người khác.
Chúng ta hãy nhìn lên ngọn nến lung linh trên bàn thờ. Cây nến phải hao mòn đi để trao ban ánh sáng và sức nóng cho con người. Nếu cây nến không chịu hao mòn đi thì không có ánh sáng mà không có ánh sáng thì không phục vụ cho con người được. Lúc đó cây nến chỉ còn là đồ trang hoàng chứ không cung cấp ánh sáng cho con người được.
4.Trao ban và cô đơn
Yêu nhau thì người ta muốn gần nhau, muốn kết hợp với nhau để không bị cô đơn, nhiều khi phải bỏ tất cả để đi theo nhau. Theo nhau không phải chỉ chấp nhận một chủ thuyết, một chủ trương hay một khuynh hướng mà là muốn nối kết với nhau trong cuộc sống, bước theo nhau, coi người kia như lẽ sống của mình tựa như:
“Thuyền theo lái, gái theo chồng” (Tục ngữ):
Yêu nhau chữ vị là vì,
Chữ dục là muốn chữ tùy là theo (Ca dao)
Saint-Exupéry nói: “Cho, tức là bắc một nhịp cầu trên sự cô đơn”. Tự bản thân, con người sống cô độc, khép kín vào bản ngã mình, giới hạn vào những kiến thức, rối ren trong những khó khăn của mình. Nếu xa cách tha nhân, hoặc không có ai tới nâng đỡ, thì lại càng cô đơn thêm.
Cho, tức là bắc cầu, là mở đường giao thông. Cho cái gì? Không nhất thiết phải cho tiền bạc, của cải vật chất bởi vì ai cũng có cái gì để cho. Chúng ta có thể cho “đôi mắt” khi thấy một cụ già đang bối rối muốn băng qua đường, ta biết giúp đỡ cụ. Chúng ta có thể cho một lời nói để khích lệ hay chia buồn, một lời cám ơn, một lời khen ngợi. Chúng ta có thể cho nhau một nụ cười thông cảm, một cử chỉ thân thiện. . . Thử lập một danh sách xem tôi đã cho những gì và đã nhận được những gì nơi người khác.
Chúa Giêsu đã trao ban cho ta chính con người của Ngài trong phép Thánh Thể, Ngài không bao giờ cô đơn vì Ngài luôn luôn biết cho đi, cho đi một cách quảng đại, cho đi không có giới hạn, cho đi mãi mãi. Nhưng chúng ta không đáp lại sự cho đi của Ngài, chúng ta thờ ơ trước sự trao ban vô vị lợi của Ngài, làm cho Ngài phải cô đơn. Để tránh sự cô đơn của chúng ta đối với Chúa và với tha nhân, ta hãy biết cho đi bằng cách phục vụ Chúa trong tha nhân, càng cho đi thì càng gần Chúa, càng sống thân mật với Ngài vì “Cho đi thì có phúc hơn là nhận” và nếu yêu mà chỉ nhận thì tình yêu sẽ chết.