“Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà!
Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?”
(Lc 24,39)
BÀI ĐỌC I: Cv 3, 11-26
“Đấng ban sự sống thì anh em đã giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, khi người què được chữa lành cứ theo sát Phêrô và Gioan, toàn dân bỡ ngỡ chạy đến hai ngài đang ở hành lang gọi là hành lang Salômôn. Thấy vậy Phêrô liền nói với dân chúng rằng: “Hỡi các người Israel, tại sao anh em ngạc nhiên về việc đó và nhìn chúng tôi như là chúng tôi dùng quyền năng hay lòng đạo đức riêng mà làm cho người này đi được? Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, Thiên Chúa Giacóp, Thiên Chúa các tổ phụ chúng ta, đã làm vinh danh Chúa Giêsu, Con của Ngài, Đấng mà anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt Philatô trong khi Philatô xét là phải tha cho Người. Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh, Đấng Công Chính, và xin tha tên sát nhân cho anh em, còn Đấng ban sự sống thì anh em lại giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, điều đó chúng tôi xin làm chứng. Và bởi đã tin vào danh Người, nên danh Người đã làm cho kẻ mà anh em thấy và biết đây, được vững mạnh, và lòng tin vào Người chữa anh này hoàn toàn lành mạnh trước mặt hết thảy anh em.
“Hỡi anh em, thế nhưng tôi biết rằng anh em đã hành động vì không biết, như các thủ lãnh anh em đã làm. Thiên Chúa đã hoàn tất việc Ngài dùng miệng các tiên tri mà báo trước rằng Đức Kitô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy ăn năn hối cải, ngõ hầu tội lỗi anh em được xoá bỏ, như thế để Thiên Chúa ban cho anh em thời kỳ thư thái, và sai Đức Giêsu Kitô, Đấng mà Chúa đã phán hứa cùng anh em trước, Đấng phải về trời cho đến thời kỳ phục hồi vạn vật, như Chúa đã dùng miệng các thánh tiên tri Ngài mà phán từ ngàn xưa. Môsê đã nói rằng:
“’Vì Chúa là Thiên Chúa các ngươi sẽ cho xuất hiện giữa anh em các ngươi một tiên tri như ta, các ngươi hãy nghe tất cả những điều Ngài sẽ nói với các ngươi’. Vậy, tất cả những ai không chịu nghe theo vị tiên tri đó, thì sẽ bị khai trừ khỏi dân chúng.
“Và tất cả các tiên tri, từ Samuel và các vị kế tiếp, đều đã nói và tiên báo về ngày này. Anh em là con cháu các tiên tri và con cháu của giao ước mà Chúa đã thiết lập với các tổ phụ chúng ta, khi Người phán cùng Abraham rằng: “Chính nơi dòng dõi ngươi, mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc”. Chính vì anh em trước tiên mà Thiên Chúa đã cho Con của Ngài xuất hiện và sai đi chúc phúc cho anh em, để mỗi người từ bỏ tội ác”.
ĐÁP CA: Tv 8, 2a và 5. 6-7. 8-9
Lạy Chúa, lạy Chúa chúng con, lạ lùng thay danh Chúa khắp nơi hoàn cầu
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng:
1) Lạy Chúa, lạy Chúa chúng con, lạ lùng thay danh Chúa khắp nơi hoàn cầu! Nhân loại là chi mà Chúa để ý chăm nom?- Đáp.
2) Chúa dựng nên con người kém thiên thần một chút, Chúa trang sức con người bằng danh dự với vinh quang, Chúa ban cho quyền hành trên công cuộc tay Ngài sáng tạo, Chúa đặt muôn vật dưới chân con người. – Đáp.
3) Nào chiên, nào bò, thôi thì tất cả, cho tới những muông thú ở đồng hoang, chim trời với cá đại dương, những gì lội khắp nẻo đường biển khơi. – Đáp.
TIN MỪNG: Lc 24,35-48
35 Còn hai ông thì thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
36 Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!” 37 Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. 38 Nhưng Người nói: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? 39 Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” 40 Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. 41 Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: “Ở đây anh em có gì ăn không?” 42 Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. 43 Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông. 44 Rồi Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Mô-sê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm.”
45 Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh 46 và Người nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; 47 phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. 48 Chính anh em là chứng nhân về những điều này.
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
NHỊP ĐIỆU PHỤC SINH
Hai ông thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh. Các ông còn đang nói, thì chính Chúa Giê-su đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (Lc 24,35-36)
Suy niệm: Các trình thuật về những lần Chúa Ki-tô phục sinh hiện ra thật dồn dập: Nhóm này đang thuật chuyện mình gặp Chúa thế nào, chưa xong thì nhóm khác lại kể tiếp kinh nghiệm gặp gỡ Đức Ki-tô phục sinh. Kể chưa xong thì Chúa lại hiện đến đứng giữa các ông. Đây không phải là một thủ pháp văn chương của vị thánh sử muốn ghi đậm ấn tượng về biến cố sống lại, mà đó chính là nhịp sống của Hội Thánh ngay từ những ngày đầu cảm nếm mầu nhiệm phục sinh. Điệu luân vũ phục sinh đó gồm mấy động tác cơ bản sau đây: -1/ gặp gỡ Đấng Phục Sinh -2/ quy tụ cộng đoàn -3/ chia sẻ kinh nghiệm gặp Chúa -1/ Chúa Ki-tô phục sinh lại hiện diện giữa cộng đoàn để củng cố và mở ra một kinh nghiệm gặp gỡ mới.
Mời Bạn: Những diễn viên múa lành nghề để cho vũ điệu thấm vào máu thịt, rồi toát ra trong từng cử chỉ, bước đi của mình; là ki-tô hữu, chúng ta đã để cho nhịp điệu phục sinh thấm vào máu thịt và toát ra đời sống của mình chưa?
Chia sẻ: Bạn có ý thức trong cộng đoàn việc cộng tác chia sẻ là nghĩa vụ của mỗi người để xây dựng cộng đoàn không?
Sống Lời Chúa: Mời bạn luyện tập các động tác cơ bản của điệu vũ: -1/ gặp gỡ Đấng Phục Sinh (bằng cách siêng năng rước lễ, suy niệm cá nhân); -2/ quy tụ (gặp gỡ nhóm, gia đình, cộng đoàn của bạn); -3/ chia sẻ (đọc và chia sẻ Lời Chúa); -1/ tiếp tục gặp gỡ Đức Ki-tô. Chúc bạn thành công.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Ki-tô phục sinh, xin ở lại với chúng con.
B/ Lm. Phaolô Vũ Đức Vượng
THỨ NĂM TUẦN BÁT NHẬT PS
Lc, 24, 35-48
Sau khi Chúa Giêsu đã chết và xác được táng trong mồ, các Tông đồ rơi vào tình trạng đau buồn tuyệt vọng. Họ ngồi lại với nhau vì sợ người Do Thái, Họ co cụm lại với nhau để than khóc u sầu hơn là đợi chờ hy vọng. Hôm qua, hai môn đệ không chịu đựng nổi cảnh này, đã bỏ cuộc, về quê. Chúa Giêsu đã phải hiện ra để củng cố niềm tin và lôi họ trở lại Giêrusalem. Nhóm còn lại thì vẫn chưa tin, Chúa Giêsu cũng phải hiện ra để chứng minh Ngài đã sống lại.
Nhưng cả hai bài Tin mừng hôm qua và hôm nay đều cho thấy: Chúa Giêsu đã đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau một đoạn dài mà họ vẫn không nhận ra Ngài. Rồi hôm nay, Chúa Giêsu hiện ra giữa nhóm môn đệ, nhưng họ cũng không nhận ra, tưởng là ma.
Các môn đệ không nhận ra, bởi vì lòng các ông đang chĩu nặng những lo âu buồn nản. Khi các môn đệ yếu đức tin, họ coi Ðức Giêsu phục sinh chỉ là bóng ma. Nhưng khi đức tin của họ được củng cố, họ mới thấy Ngài có thực.
Lo âu, thất vọng và buồn nản, đó là những tâm trạng thường xuyên, nó rất gần gũi với con người chúng ta. Hơi một tí là lo, hơi một tí là buồn, hơi một tí là thất vọng. Và những tâm trạng đó lại là những cái làm lu mờ niềm tin của chúng ta.
Kitô giáo là một tôn giáo của niềm vui, vui vì được Thiên Chúa từ trời cao xuống viếng thăm. Vui vì được Chúa nâng lên hàng con cái. Vui vì sẽ được phục sinh, vui vì hạnh phúc vĩnh cửu đang chờ đón. Vì thế chỉ khi nào chúng ta sống vui tươi và tràn trề hy vọng, thì lúc đó mới phù hợp với niềm tin và và mới nhận ra Chúa Phục sinh đang đồng hành với chúng ta trong mọi nẻo đường của cuộc sống.
Chuyện Ðức Giêsu phục sinh là chuyện khó tin. Nhưng nếu chúng ta sống quên mình phục vụ thì có thể giúp người ta gặp được Ðấng đang sống.
C/ Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
NHẤT TRÍ & YÊU THƯƠNG
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Năm trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Cha đã quy tụ muôn nước muôn dân để họ cùng tuyên xưng Cha là Thiên Chúa, xin ban cho tất cả những ai đã tái sinh nhờ Bí Tích Thánh Tẩy: được đồng tâm nhất trí trong cùng một đức tin, và đoàn kết yêu thương trong cuộc sống hằng ngày.
Đồng tâm nhất trí và đoàn kết yêu thương là câu trả lời xác thực cho những ai muốn chất vấn về niềm hy vọng của chúng ta, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thánh Phêrô kêu gọi: Tất cả anh chị em hãy đồng tâm nhất trí, thông cảm với nhau, hãy yêu thương nhau như anh em, hãy ăn ở nhân hậu và khiêm tốn. Đừng lấy ác báo ác, đừng lấy lời nguyền rủa đáp lại lời nguyền rủa, nhưng trái lại, hãy chúc phúc, vì anh chị em được Thiên Chúa kêu gọi chính là để thừa hưởng lời chúc phúc.
Đồng tâm nhất trí và đoàn kết yêu thương là hiệp nhất trong cùng một đức tin, và sống điều mà chúng ta tuyên xưng khi chịu Phép Rửa, bài đọc hai của giờ Kinh Sách cho thấy: Anh em đã được dẫn tới bể nước thánh tẩy, như Đức Kitô được đưa từ thập giá tới phần mộ đàng kia trước mặt anh em. Rồi mỗi người được hỏi có tin vào danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần không. Anh em đã nói lên lời tuyên xưng đức tin có sức cứu độ, và được dìm ba lần trong nước, rồi trồi lên. Như thế, anh em vừa diễn lại cách tượng trưng việc Đức Kitô chịu mai táng ba ngày trong phần mộ.
Đồng tâm nhất trí và đoàn kết yêu thương là tâm tình sám hối, quay trở về với Đấng tác tạo và cứu độ chúng ta, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật lại việc thánh Phêrô kêu gọi dân chúng: Thưa anh em, giờ đây tôi biết anh em đã hành động vì không hiểu biết, cũng như các thủ lãnh của anh em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Người dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của Người phải chịu khổ hình. Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa, để Người xóa bỏ tội lỗi cho anh em. Như vậy, thời kỳ an lạc mà Đức Chúa ban cho anh em sẽ đến.
Đồng tâm nhất trí và đoàn kết yêu thương là thái độ biết ơn, nhìn nhận Chúa là Cha yêu thương quan phòng mọi sự cho chúng ta, như trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 8, vịnh gia đã ca ngợi: Lạy Đức Chúa là Chúa chúng con, lẫy lừng thay danh Chúa trên khắp cả địa cầu! Con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm? Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân.
Trong bài Tin Mừng, thánh Luca tường thuật lại việc Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ, Người giải thích Thánh Kinh và sai các ông đi làm chứng cho Người: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này. Đức Phaolô VI đã từng nói: Con người thời nay cần chứng nhân hơn thầy dạy. Thật vậy, làm chứng cho Chúa là phải làm chứng bằng chính đời sống của mình, như lời Đức Giêsu đã từng dạy: Cứ dấu này, người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em hãy yêu thương nhau. Đồng tâm nhất trí và đoàn kết yêu thương là một lời chứng sống động có sức thuyết phục hơn cả, bởi vì, đây chính là căn tính của chúng ta, xuất phát từ sự hiệp nhất và yêu thương của Thiên Chúa, qua trung gian Đức Giêsu Kitô, trong Chúa Thánh Thần. Ước gì chúng ta biết tận dụng các phương tiện Chúa ban: là Lời Chúa và các Bí Tích, để làm chứng cho Chúa bằng một đời sống hiệp nhất và yêu thương nhau. Ước gì được như thế!
D/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
KINH NGHIỆM GẶP ĐẤNG PHỤC SINH
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một bầu khí tràn ngập niềm hân hoan trùng phùng gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và các môn đệ, cũng như các môn đệ với nhau. Thầy từ cõi chết nay phục sinh đến gặp gỡ, an ủi, ban bình an cho các môn đệ. Còn các môn đệ sau những giây phút hốt hoảng, ngờ vực, ngỡ ngàng là niềm vui sướng tràn trề nhận ra Thầy đang sống với vinh quang và uy quyền của Đấng phục sinh. Đặc biệt, các môn đệ sau những ngày ly tán vì cái chết của Thầy, thì nay lại tề tựu trong căn nhà Tiệc ly để chia sẻ cho nhau niềm vui và kinh nghiệm gặp được Thầy.
“Hai môn đệ từ làng Emmaus trở về, thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh”. Nhìn vào hành trình của hai môn đệ trên đoạn đường Emmaus có lẽ sẽ giúp chúng ta nhận ra hành trình Emmaus của mình, như Lm. Thành Tâm diễn tả:
ĐK: Trên đường Em-mau, hai người lữ khách bước đi bên nhau. Mộng vàng tan mau, nhọc nhằn lê gót chân buồn đường dài. Này Ngài tiến đến, về Em-mau tiến bước theo ngay bên. Họ không trông ai, người lữ khách đó chính là Ngài.
1.Biết mấy lúc chúng ta đi trong cuộc sống mỗi ngày, đã gặp Ngài nhưng chẳng biết Ngài. Ấy những lúc mắt ta không trông không thấy được Ngài: Trong những kẻ nghèo đói.
2.Có những phút thảnh thơi rong chơi ta đã gặp Ngài trên vỉa hè nhưng chẳng biết Ngài. Ấy những lúc chúng ta vô tâm không để ý Ngài: người ăn xin hèn yếu.
3.Có những buổi sát vai nhanh chân ta bước bên Ngài trên đường về nhưng chẳng biết Ngài. Ấy những lúc chúng ta vô tâm không để ý Ngài: Người lao công cùng đi.
4.Có những buổi nắng phai rong chơi ta đã gặp Ngài khắp phố phường nhưng chẳng biết Ngài. Ấy những lúc chúng ta vô tâm không để ý Ngài: Người phu xe gầy vai.
Có lẽ như hai môn đệ Emmaus xưa, nhiều lần chúng ta đã không nhận ra Chúa nơi tha nhân. Nhưng chính kinh nghiệm của hai môn đệ này, có thể giúp ta vững niềm tin, gặp lại Chúa giữa những khó khăn thử thách trong đời, khi trung thành lắng nghe lời Chúa: “Chúng ta chẳng thấy lòng ấm lên sao”, khi ân cần tiếp đón, giúp đỡ tha nhân: “Xin Ngài ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều và ngày đã xế” (Lc 24,29).
Ước chi những kinh nghiệm của hai môn đệ Emmaus cũng là kinh nghiệm của mỗi chúng ta trước những thử thách, gian nan, chán nản trong cuộc lữ hành đức tin. Chúng ta chẳng thể tìm đâu được niềm an vui hạnh phúc thật ngoài Lời Chúa, ngoài Đức ái, và ngoài Bí tích Thánh thể thần lương cho linh hồn.
Lạy Chúa Kitô phục sinh, xin giúp chúng con biết làm chứng mầu nhiệm Chúa đã phục sinh qua cuộc sống mến yêu, phục vụ hết mọi người. Amen.
E/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
ĐỜI SỐNG CHỨNG NHÂN
Thánh Luca tiếp tục tường thuvật cuộc hiện ra thứ hai của Chúa Phục sinh, lần này là hiện ra cho các Tông đồ ở Giêrusalem:
Hai môn đệ Emmaus vừa trở về báo tin cho các Tông đồ hay là Đức Giêsu đã sống lại.
Đức Giêsu hiện ra với các ông ở nhà Tiệc ly:
Ngài chứng minh cho các ông hiểu rằng sau khi sống lại, Ngài vẫn là một như trước (có tay chân xác thịt, biết ăn uống).
Ngài cắt nghĩa bài học Kinh Thánh: Đức Kitô phải trải qua cái chết mới tới phục sinh.
Ngài bảo các ông hãy nhân danh Ngài “rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân”.
Ban tối, khi các Tông đồ đang tụ họp trong nhà Tiệc ly để nghe các môn đệ từ Emmaus trở về thuật lại việc đã gặp Chúa Phục sinh. Các ông đang bàn tán, tranh luận, Chúa Phục sinh hiện ra với các ông làm các ông hoảng sợ vì thấy ma ! Nhưng Chúa đã trấn an các ông:”Sao anh em lại hoảng hốt, Thầy đây”(Lc 24,38).
Đức Giêsu không một lời trách móc về sự cứng tin của các ông, lại còn chúc lành và còn cho các ông xem các thương tích của Ngài, ăn cá nướng và mật ong trước mặt các ông, để chứng minh cho các ông biết chính là Ngài chứ không phải là ai khác, là người đã sống với các ông trước đây. Với tất cả những lời nói và cử chỉ đó, Chúa muốn minh chứng cho các môn đệ biết Ngài đã sống lại thật sự.
“Chính Thầy đây. Hãy sờ xem: ma đâu có xương thịt như Thầy có đây” (Lc 24,39).
Đức Giêsu xác định cho các môn đệ là chính Ngài, không là ai khác, Ngài có xương có thịt như xưa. Vì vậy ngày nay Chúa Phục sinh đang sống và hiện diện ngay trong cuộc sống của những người tin Chúa. Đây không phải chỉ là một kiểu nói, không phải chỉ là niềm tin, mà là sự thật. Đức Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi là một. Chúng ta phải xác tín thật mạnh về sự thật đó để rồi từ đó chúng ta xây dựng nên một xã hội huynh đệ hơn.
“Chính anh em là chứng nhân của những điều này”.
Đức Giêsu truyền cho các Tông đồ phải là chứng nhân của Ngài. Nhìn vào lịch sử truyền giáo, chúng ta thấy các Tông đồ, những chứng nhân trung thực, đã đi rao giảng Đức Giêsu chịu chết và phục sinh cho muôn dân, nghĩa là sau khi Chúa về trời, và sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, từ những người nhát gan, sợ hãi, từ những người dân chài, quê mùa, không hiểu gì về Đấng Cứu Thế… các ông đã trở nên những người can đảm, thông thái, lợi khẩu. Các Ngài đã vâng lệnh Chúa ra đi rao giảng cho mọi người biết và tin Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa đã đến trần gian, đã chết và sống lại để cứu chuộc tất cả mọi người. Các ngài đã đóng đúng vai trò chứng nhân và thi hành đầy đủ bổn phận làm chứng của mình.
Chúng ta cũng phải làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Không cần phải làm những công việc hiển hách, lớn lao, chỉ làm những công việc bình thường theo nhiệm vụ của mình, miễn sao làm gương sáng cho người khác để từ đó họ sẽ biết Chúa.
Vào giây phút cuối cuộc đời, văn sĩ John Bayer đã nói những lời từ giã người vợ thân yêu như sau:”Mình yêu dấu, trong gương mặt của mình, tôi đã nhìn thấy dung mạo của Thiên Chúa. Xin cảm ơn mình vô cùng”.
“Trong gương mặt của mình tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa”. Mỗi Kitô hữu chúng ta được mời gọi sống như thế nào, để anh em chung quanh có thể nói tương tự:”Trong gương mặt của anh, tôi có thể nhìn thấy dung mạo của Thiên Chúa. Xin cảm ơn vô cùng”.
Đó là ơn gọi cao cả của mỗi người Kitô hữu được gọi trở nên giống Chúa, và làm cho những người khác nhìn thấy Chúa như trong Tin Mừng theo thánh Matthêu. Đức Giêsu đã căn dặn các môn đệ:”Các con hãy trở nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành”. Đức Giêsu còn nhấn mạnh đến trách nhiệm của mỗi Kitô hữu đến độ Chúa so sánh cuộc sống của họ như đèn sáng:”Các con là ánh sáng thế gian”. Ánh sáng đó cần phải chiếu sáng trước mặt người đời, ngõ hầu họ thấy việc lành mà ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời” (Hạt giống âm thầm, tr 178).
Truyện: Làm chứng bằng đời sống.
Cách đây ít lâu, trong một cuộc hội thảo của giới trẻ về đề tài “Truyền giáo năm 2000”, nhiều bạn trẻ đề nghị sử dụng tối đa các phương tiện truyền thông tân tiến của những năm cuối cùng của thế kỷ 20, gồm sách vở báo chí, phim ảnh có phẩm chất và hấp dẫn, để rao giảng Tin Mừng cho mọi tầng lớp và mọi lứa tuổi. Một số bạn trẻ khác nhấn mạnh đến công tác xã hội và bác ái. Một số bạn trẻ khác đi xa hơn bằng cách đề nghị Giáo hội chống lại những bất công xã hội, những chà đạo quyền con người, để xây dựng công lý và hòa hợp.
Trong lúc mọi người đang hăng hái đưa ra những chương trình to lớn và đề nghị những hoạt động vĩ đại, thì một thiếu nữ da mầu giơ tay xin phát biểu:”Tại Phi châu nghèo nàn và chậm tiến của chúng tôi, chúng tôi không gửi, hay đúng hơn, không có khả năng gửi đến những làng chúng tôi muốn truyền giáo những sách vở báo chí, phim ảnh… chúng tôi chỉ gửi đến đó một gia đình Công giáo tốt, để dân làng thấy thế nào là đời sống Kitô giáo (R.D. Wahrheit, Ánh sáng hy vọng, tr 208).