“Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình,
hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi”.
(Mc 6,4)
BÀI ĐỌC 1: 2 Sm 24,2.9-17
Chính con đã phạm tội nặng khi kiểm tra dân số; nhưng đàn chiên đó đã làm gì?
Bài trích sách Sa-mu-en quyển thứ hai.
2 Một hôm, vua Đa-vít bảo ông Giô-áp tướng chỉ huy quân lực, đang ở với vua: “Hãy rảo khắp các chi tộc Ít-ra-en, từ Đan tới Bơ-e Se-va, và điều tra nhân khẩu để ta biết dân số.” 9 Ông Giô-áp nộp cho vua con số của cuộc điều tra dân số: Ít-ra-en có tám trăm ngàn chiến binh biết tuốt gươm, và Giu-đa có năm trăm ngàn.
10 Vua Đa-vít áy náy trong lòng sau khi đã kiểm tra dân số như vậy. Vua Đa-vít thưa cùng Đức Chúa: “Con đã phạm tội nặng khi làm như thế. Giờ đây, lạy Đức Chúa, xin bỏ qua lỗi lầm của tôi tớ Ngài, vì con đã hành động rất ngu xuẩn.” 11 Sáng hôm sau, khi vua Đa-vít dậy, đã có lời Đức Chúa phán với ngôn sứ Gát, thầy chiêm của vua Đa-vít, rằng: 12 “Hãy đi nói với Đa-vít: Đức Chúa phán thế này: ‘Ta đưa ra cho ngươi ba điều. Ngươi hãy chọn lấy một trong ba, và Ta sẽ thực hiện cho ngươi.’” 13 Vậy ông Gát đến gặp vua Đa-vít, báo cho vua và nói: “Ngài muốn điều gì xảy ra: hoặc bảy năm đói trong toàn nước ngài, hoặc ba tháng chạy trốn trước mặt kẻ thù đuổi theo ngài, hoặc ba ngày ôn dịch? Bây giờ xin ngài suy nghĩ xem tôi phải trả lời thế nào cho Đấng đã sai tôi.” 14 Vua Đa-vít nói với ông Gát: “Tôi lâm vào cảnh rất ngặt nghèo. Thà chúng ta sa vào tay Đức Chúa còn hơn, vì lòng thương của Người bao la, nhưng ước chi tôi đừng sa vào tay người phàm!”
15 Đức Chúa giáng ôn dịch xuống Ít-ra-en từ sáng hôm đó cho đến lúc đã định, và từ Đan tới Bơ-e Se-va, có bảy mươi ngàn người trong dân đã chết. 16 Thiên sứ đưa tay về phía Giê-ru-sa-lem để tàn phá thành, nhưng Đức Chúa hối tiếc vì tai hoạ đó, và Người bảo thiên sứ có nhiệm vụ tiêu diệt dân: “Đủ rồi! Bây giờ rút tay lại.” Thiên sứ của Đức Chúa đang ở gần sân lúa của ông A-rau-na, người Giơ-vút. 17 Vua Đa-vít thưa với Đức Chúa, khi thấy thiên sứ có nhiệm vụ đánh phạt dân, ông nói: “Ngài coi, chính con đã phạm tội, chính con có lỗi; nhưng đàn chiên đó đã làm gì? Xin tay Ngài cứ đè trên con và nhà cha con!”
ĐÁP CA: Tv 31,1-2.5.6.7 (Đ. x. c.5d)
Đ.Lạy Chúa, xin tha thứ tội vạ cho con.
1)1Hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ,
người có tội mà được khoan dung.
2Hạnh phúc thay, người Chúa không hạch tội,
và lòng trí chẳng chút gian tà.
2)5Lạy Chúa, con đã xưng tội ra với Ngài,
chẳng giấu Ngài lầm lỗi của con.
Con tự nhủ: “Nào ta đi thú tội với Chúa”,
và chính Ngài đã tha thứ tội vạ cho con.
3)6Vì thế, ai là người hiếu trung với Chúa
sẽ kêu cầu Ngài lúc gặp cảnh gian truân;
cho dầu nước lũ có ngập tràn
cũng không dâng tới họ.
4)7Chính Chúa là nơi con ẩn náu,
giữ gìn con khỏi bước ngặt nghèo.
Khắp bốn bề, Chúa làm trổi vang lên
những khúc ca mừng con được giải thoát.
TUNG HÔ TIN MỪNG: Ga 10,27
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Chúa nói: Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng, và chúng theo tôi. Ha-lê-lui-a.
TIN MỪNG: Mc 6,1-6
Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.
1 Khi ấy, Đức Giê-su trở về quê quán của Người, có các môn đệ đi theo. 2 Đến ngày sa-bát, Người bắt đầu giảng dạy trong hội đường. Nhiều người nghe rất đỗi ngạc nhiên. Họ nói: “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì? 3 Ông ta không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a và là anh em của các ông Gia-cô-bê, Giô-xết, Giu-đa và Si-môn sao? Chị em của ông không phải là bà con lối xóm với chúng ta sao?” Và họ vấp ngã vì Người. 4 Đức Giê-su bảo họ: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi.” 5 Người đã không thể làm được phép lạ nào tại đó; Người chỉ đặt tay trên một vài bệnh nhân và chữa lành họ. 6 Người lấy làm lạ vì họ không tin. Rồi Người đi các làng chung quanh mà giảng dạy.
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
GẶP GỠ THIÊN CHÚA-LÀM-NGƯỜI
“Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc 6,2)
Suy niệm: “Khi Thiên Chúa trở thành một Con Người, sống như một thụ tạo giữa các thụ tạo của Ngài tại Palestine, thì cuộc đời Ngài thật sự là một sự quên mình lớn lao nhất, hướng về đồi Can-vê” (C.S. Lewis). Dân làng Na-da-rét trong hội đường hôm ấy không thể nào hiểu được tại sao bác thợ Giê-su ngày nào bây giờ lại khôn ngoan, giảng dạy lôi cuốn, cũng như đầy quyền năng với những phép lạ kỳ diệu như vậy. Vì định kiến, họ không thể nhận ra rằng người đồng hương của họ không chỉ là một con người, nhưng còn là Thiên Chúa: một vị Thiên Chúa trở thành xác phàm ở giữa nhân loại. Làng Na-da-rét nhỏ bé vô danh của họ được cả nhân loại biết đến cũng nhờ người đồng hương này.
Mời Bạn: Na-tha-na-en cũng từng đầy thiên kiến về Na-da-rét: “Từ Na-da-rét, làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1,46). Vậy mà sau khi gặp người Na-da-rét ấy, ông thay đổi định kiến, trở thành môn đệ Ngài. Muốn biết trái măng cụt ngon ngọt thế nào, bạn phải nhai, nuốt, thưởng thức nó. Cũng vậy, muốn biết vị Thiên-Chúa-làm-người hiền lành và khiêm nhường ra sao, bạn hãy đến gặp Ngài, ở lại với Ngài, tiêu hóa Lời Ngài, rước lấy Ngài trong Thánh Thể cách ý thức và thường xuyên.
Sống Lời Chúa: Tôi tập gặp gỡ Chúa Giê-su thường xuyên hơn qua việc cầu nguyện, đọc Tin Mừng, rước lễ… mỗi ngày. Nói chung, dành cho vị Thiên Chúa-làm-người cao cả ấy một vị trí xứng hợp hơn trong đời mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, cảm tạ Chúa đã nhập thể làm người ở giữa nhân loại. Xin cho con luôn hạnh phúc có Chúa hiện diện trong đời mình.
B/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
CHÚA GIÊSU BỊ KHƯỚC TỪ
1.Sau khi đi rao giảng Tin mừng một thời gian ngắn, hôm nay Chúa Giêsu trở về Nagiarét quê hương của Người. Người vào giảng dạy trong hội đường. Ai nấy đều cảm phục vì bao phép lạ Người làm, vì giáo lý của Người rất cao siêu và giảng dạy rất khôn ngoan. Nhưng vì họ cứ nghĩ Người là một anh thợ mộc tầm thường trong làng, mà không nhìn nhận Người là Đấng Thiên Sai, là Con Thiên Chúa, nên không chịu tin lời Người. Họ có thành kiến lớn lao đối với Người. Thế nên Người không làm phép lạ nào để cứu giúp họ, mà chỉ chữa vài người bệnh, vì Người không muốn tỏ quyền năng của Người cho những kẻ đóng kín tâm hồn.
2.Theo ông Đào Duy Anh, “thành kiến” là ý kiến cố chấp không thể lay động được. Khi có ý kiến tốt hay xấu về một người hay một vật gì thì khó lòng có thể thay đổi được. Thành kiến thay đổi sự thật của sự vật, không còn như nó có nữa. Thành kiến đã bóp méo sự thật, giống như người đeo kính màu xanh thì vật gì cũng xanh, đeo kính màu đỏ thì vật gì cũng đỏ.
Người ta có thể nhìn sự vật với ba thái độ, đó là yêu, ghét hay dửng dưng. Nhưng thường thì chúng ta ít khi có thái độ dửng dưng, trung lập, mà thường là nghiêng về một phía yêu hay ghét. Chính thái độ yêu hay ghét này làm cho ta nhìn sự vật khác nhau: “Yêu nên tốt, ghét nên xấu”. Khi yêu thì coi mọi sự đều đẹp đều tốt, khi ghét thì mọi cái là xấu: “Yêu ai yêu cả đường đi, ghét ai ghét cả tông chi họ hàng”.
3.Qua kinh nghiệm hằng ngày, chúng ta phải công nhận rằng: thành kiến là một căn bệnh phổ quát chung cho mọi người. Thành kiến là một chứng bệnh di truyền kinh niên bất trị của loài người, không ai thoát khỏi. Chúng ta hằng to tiếng lên án cái lối sống phô trương bên ngoài. Nhưng trên thực tế, chúng ta lại hằng căn cứ vào những cái bề ngoài mà đánh giá thiên hạ. Cùng một câu văn, một lời nói, một việc làm, mà do người này thì có giá trị, do người kia thì vô duyên; do người này thì hay đáo để, do người kia thì dở ẹc ra. Người có danh tiếng thì lời nói việc làm nào cũng được coi như vàng ngọc. Người vô danh tiểu tốt thì lời có đẹp như trăng sao, việc có hay như thần thánh, cũng bị thành kiến dìm xuống đến tận bùn đen. Vì thế, Chúa Giêsu đã nói: “Không tiên tri nào lại được trọng đãi nơi quê hương mình” (Ga 4,44).
4.Dân làng Nagiarét không thể chấp nhận một người mà họ đã quen biết: thân thế tầm thường, gia đình nghèo nàn, họ hàng chẳng có danh giá gì. Biết rõ như thế thì làm sao người đó có thể là Vị Cứu tinh, là Đấng giải thoát cho dân tộc mình được ? Quả thực, họ đã bị thành kiến về giàu nghèo, về giai cấp trong xã hội làm mù quáng, không thể nhận ra bản tính Thiên Chúa, nhận ra sứ mạng cứu chuộc nơi con người Đức Giêsu. Từ thành kiến sai lầm đó họ đâm ra hoài nghi và yêu cầu Ngài làm phép lạ như đã làm những nơi khác.
Trước sự cứng lòng và khinh thường của dân làng Nazareth, Chúa Giêsu chẳng biết làm gì hơn ngoài việc đưa ra nhận xét chua cay: “Tiên tri có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6,4). Dân làng Nazareth không tin Chúa thì cũng vì họ đóng khung Thiên Chúa và tôn giáo vào trong những định kiến hẹp hòi có sẵn của họ. Đấng Cứu Thế phải hiện nguyên hình như định kiến của họ, nghĩa là Đấng Cứu Thế phải có đầy quyền lực theo nghĩa thế gian, họ không thể tin nhận được một Đấng Cứu Thế như một con người đơn sơ khiêm hạ như họ thấy được.
5.Trên đường truyền giáo, Chúa Giêsu vẫn đem các môn đệ đi theo để huấn luyện các ông. Trong việc huấn luyện cũng cần thấy sự thất bại, chứ không phải chỉ nhìn thấy thành công. Sau này trên đường truyền giáo, sự thất bại không làm cho các ông nản lòng./Các nhà rao giảng Tin mừng hãy bắt chước Chúa Giêsu mà đón nhận thái độ “Bụt nhà không thiêng” của những người được rao giảng. Họ có thể nghi kỵ, không ưa, hoặc chống đối chúng ta đi nữa, thì hãy vững tâm vì “chân lý sẽ thắng”. Ban đầu có thể gặp thất bại nhưng với thời gian người ta sẽ nhìn ra chân lý. Chúa Giêsu đã thất bại khi còn sống nhưng đã thành công vẻ vang sau khi sống lại. Người tông đồ cũng phải đi theo con đường ấy: phải kiên nhẫn chịu đựng, nhưng phải chịu đựng trong vui tươi với tình thương mến.
Truyện: Cậu bé R. Tagore
Tagore là một thi sĩ nổi tiếng của Ấn Độ và cả Đông phương nữa. Ông có khiếu làm thơ ngay lúc còn thơ ấu. Một hôm, cậu bé Tagore làm một bài thơ và đưa lên cho cha xe. Ông thân sinh lắc đầu chê:
– Thơ mày là thơ thẩn!
Tagore mới nghĩ ra một mưu: cậu đem bài thơ của mình mới làm, chép lại thật kỹ và chua xuất xứ là trích sao trong một cuốn thơ cổ. Cậu ta lại không quên đề tên cuốn thơ cổ ấy cẩn thận.
Lần này, ông thân sinh đọc xong, mắt sáng rực lên, vỗ đùi khen: “Tuyệt, tuyệt”. Rồi đem khoe tíu tít với đứa con trai lớn của ông, hiện đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học. Ông nói:
– Ba đã đọc rất nhiều thơ cổ, nhưng chưa thấy bài nào hay như bài này.
Ông con trai chủ nhiệm đọc xong cũng hết mình đồng ý, xoa tay khen là hay đáo để, và muốn trích đăng lên mặt tờ báo văn học của ông.
Bấy giờ ông anh cũng như ông thân sinh đòi Tagore phải đem cuốn thơ cổ kia ra, để đối chiếu chứng minh và cũng để dễ bề chua xuất xứ trong khi đăng.
Đến đây câu chuyện mới vỡ lở ra. Có ai ngờ trên đây là một cuộc dàn cảnh bịa đặt của thằng bé Tagore! Ông thân sinh giận sôi máu lên, nhưng rồi cũng phải nhìn con với cặp mắt thán phục và hối hận cho thái độ mâu thuẫn của mình xưa nay.