• Trang Chủ
  • Giới Thiệu
    • Tổng Quan Giáo Phận
      • Lịch Sử Giáo Phận
      • Niên Giám Giáo Phận
      • Bản Đồ Giáo Phận
      • Truyền Giáo - Bác Ái Xã Hội
    • Giám Mục Giáo Phận
      • Tiểu Sử Đức Giám Mục Đương Nhiệm
      • Bài Giảng Đức Giám Mục
      • Các Đức Giám Mục Tiền Nhiệm
    • Danh Sách Linh Mục
    • Đại Chủng Viện Và Dòng Tu
      • Đại Chủng Viện Minh Hoà
      • Tu Đoàn Tông Đồ ICM
      • Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt
      • Dòng Chứng Nhân Đức Tin
      • Đan Viện Cát Minh Têrêsa Đà Lạt
      • Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Sơn
      • Các Dòng Tu Khác
    • Giáo Hạt Và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Giờ Lễ
  • Phụng Vụ
    • Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
      • Mùa Thường Niên
      • Mùa Vọng – Giáng Sinh
      • Mùa Chay – Phục Sinh
      • Lễ Ngoại Lịch
    • Chư Thánh
    • Lời Nguyện Tín Hữu
      • Năm A
      • Năm B
      • Năm C
      • Lễ Chung
    • Nghi Thức Và Kinh Nguyện
      • Kinh Nguyện
      • Nghi Thức
    • Giờ Kinh Phụng Vụ
  • Mục Vụ
    • Thiếu Nhi
    • Giới Trẻ
    • Hôn Nhân – Gia Đình
    • Truyền Giáo
    • Caritas
    • Di Dân
    • Truyền Thông
    • Thánh Nhạc
    • Tham Khảo Mục Vụ
  • Tin Tức
    • Tin Tức Giáo Phận
    • Tin Tức Giáo Hội Việt Nam
    • Tin Tức Giáo Hội Hoàn Vũ
    • Thông Báo
    • Cáo Phó Và Hiệp Thông
  • Tài Liệu
    • Văn Kiện Giáo Hội Hoàn Vũ
      • Đức Thánh Cha
      • Công Đồng Chung
      • Thượng Hội Đồng Giám Mục
      • Các Bộ Giáo Triều
      • Tài Liệu Khác Toà Thánh
    • Văn Kiện Hội Đồng Giám Mục
      • Thư Chung
      • Thư Mục Vụ Của Các Giám Mục
      • Thư Mục Vụ Của Hội Đồng Giám Mục
      • Tài Liệu Khác HĐGM
    • Văn Kiện Giáo Phận
      • Thư Mục Vụ
      • Sắc Lệnh Và Quy Chế
      • Thường Huấn Linh Mục
      • Tĩnh Tâm Linh Mục
      • Tài Liệu Khác Giáo Phận
    • Kinh Thánh
      • Chia Sẻ Lời Chúa
      • Tìm Hiểu Kinh Thánh
    • Giáo Lý
      • Giáo Lý Dự Tòng
      • Giáo Lý Phổ Thông
      • Giáo Lý Hôn Nhân
      • Tài Liệu Khác
    • Tu Đức – Nhân Bản
    • Triết Học
      • Đông Phương
      • Tây Phương
    • Thần Học
      • Phụng Vụ – Bí Tích
      • Tín Lý
      • Luân Lý
      • Mục Vụ
      • Học Thuyết Xã Hội
      • Giáo Phụ
      • Suy Tư Thần Học
    • Giáo Luật
    • Lịch Sử Giáo Hội
    • Tham Khảo
  • Media
    • Thánh Lễ
    • Bài Giảng
    • Suy Niệm Lời Chúa
    • Chầu Thánh Thể
    • Giáo Lý
    • Nhạc Thánh Ca
    • Giới Thiệu Giáo Xứ
    • Thắng Cảnh Tôn Giáo
    • Video Sinh Hoạt
   
Không Có Kết Quả
Xem Tất Cả
  • Trang Chủ
  • Giới Thiệu
    • Tổng Quan Giáo Phận
      • Lịch Sử Giáo Phận
      • Niên Giám Giáo Phận
      • Bản Đồ Giáo Phận
      • Truyền Giáo - Bác Ái Xã Hội
    • Giám Mục Giáo Phận
      • Tiểu Sử Đức Giám Mục Đương Nhiệm
      • Bài Giảng Đức Giám Mục
      • Các Đức Giám Mục Tiền Nhiệm
    • Danh Sách Linh Mục
    • Đại Chủng Viện Và Dòng Tu
      • Đại Chủng Viện Minh Hoà
      • Tu Đoàn Tông Đồ ICM
      • Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt
      • Dòng Chứng Nhân Đức Tin
      • Đan Viện Cát Minh Têrêsa Đà Lạt
      • Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Sơn
      • Các Dòng Tu Khác
    • Giáo Hạt Và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Giờ Lễ
  • Phụng Vụ
    • Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
      • Mùa Thường Niên
      • Mùa Vọng – Giáng Sinh
      • Mùa Chay – Phục Sinh
      • Lễ Ngoại Lịch
    • Chư Thánh
    • Lời Nguyện Tín Hữu
      • Năm A
      • Năm B
      • Năm C
      • Lễ Chung
    • Nghi Thức Và Kinh Nguyện
      • Kinh Nguyện
      • Nghi Thức
    • Giờ Kinh Phụng Vụ
  • Mục Vụ
    • Thiếu Nhi
    • Giới Trẻ
    • Hôn Nhân – Gia Đình
    • Truyền Giáo
    • Caritas
    • Di Dân
    • Truyền Thông
    • Thánh Nhạc
    • Tham Khảo Mục Vụ
  • Tin Tức
    • Tin Tức Giáo Phận
    • Tin Tức Giáo Hội Việt Nam
    • Tin Tức Giáo Hội Hoàn Vũ
    • Thông Báo
    • Cáo Phó Và Hiệp Thông
  • Tài Liệu
    • Văn Kiện Giáo Hội Hoàn Vũ
      • Đức Thánh Cha
      • Công Đồng Chung
      • Thượng Hội Đồng Giám Mục
      • Các Bộ Giáo Triều
      • Tài Liệu Khác Toà Thánh
    • Văn Kiện Hội Đồng Giám Mục
      • Thư Chung
      • Thư Mục Vụ Của Các Giám Mục
      • Thư Mục Vụ Của Hội Đồng Giám Mục
      • Tài Liệu Khác HĐGM
    • Văn Kiện Giáo Phận
      • Thư Mục Vụ
      • Sắc Lệnh Và Quy Chế
      • Thường Huấn Linh Mục
      • Tĩnh Tâm Linh Mục
      • Tài Liệu Khác Giáo Phận
    • Kinh Thánh
      • Chia Sẻ Lời Chúa
      • Tìm Hiểu Kinh Thánh
    • Giáo Lý
      • Giáo Lý Dự Tòng
      • Giáo Lý Phổ Thông
      • Giáo Lý Hôn Nhân
      • Tài Liệu Khác
    • Tu Đức – Nhân Bản
    • Triết Học
      • Đông Phương
      • Tây Phương
    • Thần Học
      • Phụng Vụ – Bí Tích
      • Tín Lý
      • Luân Lý
      • Mục Vụ
      • Học Thuyết Xã Hội
      • Giáo Phụ
      • Suy Tư Thần Học
    • Giáo Luật
    • Lịch Sử Giáo Hội
    • Tham Khảo
  • Media
    • Thánh Lễ
    • Bài Giảng
    • Suy Niệm Lời Chúa
    • Chầu Thánh Thể
    • Giáo Lý
    • Nhạc Thánh Ca
    • Giới Thiệu Giáo Xứ
    • Thắng Cảnh Tôn Giáo
    • Video Sinh Hoạt
Giáo Phận Đà Lạt
   
No Result
View All Result

Chúa Nhật II PS – Năm C – Kính Lòng Chúa Thương Xót

Ngày Đăng: 27/04/2025
Trong Mùa Chay - Phục Sinh
“Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến”.

Bài Ðọc I: Cv 5, 12-16

“Số người tin vào Chúa ngày càng gia tăng”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Khi ấy, các Tông đồ làm nhiều phép lạ và nhiều việc phi thường trong dân, và tất cả mọi người tập họp tại hành lang Salômôn; nhưng không một ai khác dám nhập bọn với các tông đồ. Nhưng dân chúng đều ca tụng các ngài. Số những người nam nữ tin vào Chúa ngày càng gia tăng, đến nỗi họ mang bệnh nhân ra đường phố, đặt lên giường chõng, để khi Phêrô đi ngang qua, ít nữa là bóng của người ngả trên ai trong họ, thì kẻ ấy khỏi bệnh. Ðông đảo dân chúng ở những thành phụ cận Giêrusalem cũng tuôn đến, mang theo bệnh nhân và những người bị quỷ ám. Mọi người đều được chữa lành.

Ðáp Ca: Tv 117, 2-4. 22-24. 25-27a

Ðáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở (c. 1).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: “Ðức từ bi của Người muôn thuở”. Hỡi nhà Aaron, hãy xướng lên: “Ðức từ bi của Người muôn thuở”. Hỡi những người tôn sợ Chúa, hãy xướng lên: “Ðức từ bi của Người muôn thuở”.
Xướng: Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, nên chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó.
Xướng: Thân lạy Chúa, xin gia ơn cứu độ; thân lạy Chúa, xin ban cho đời sống phồn vinh. Phúc đức cho Ðấng nhân danh Chúa mà đến; từ nhà Chúa, chúng tôi cầu phúc cho chư vị. Chúa là Thiên Chúa và đã soi sáng chúng tôi.

Bài Ðọc II: Kh 1, 9-11a, 12-13. 17-19

“Ta đã chết, nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời”.
Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.
Tôi là Gioan, anh em của chư huynh, đồng phần chia sẻ sự gian truân, vương quyền và kiên nhẫn trong Ðức Giêsu Kitô, tôi đã ở đảo Patmô vì lời Chúa và vì làm chứng Ðức Giêsu. Một Chúa Nhật nọ, tôi xuất thần và nghe phía sau tôi có tiếng phán lớn như tiếng loa rằng: “Hãy viết những điều ngươi thấy vào sách và gởi đến bảy giáo đoàn ở Tiểu Á”. Tôi quay lại để xem coi tiếng ai nói với tôi. Vừa quay lại, tôi thấy bảy chân đèn bằng vàng, và ở giữa bảy chân đèn bằng vàng đó tôi thấy một Ðấng giống như Con Người, mặc áo dài và ngang lưng thắt một dây nịt bằng vàng. Vừa trông thấy Người, tôi ngã xuống như chết dưới chân Người; Người đặt tay phải lên tôi và nói: “Ðừng sợ, Ta là Ðấng trước hết và là Ðấng sau cùng, Ta là Ðấng hằng sống; Ta đã chết, nhưng đây Ta vẫn sống đến muôn đời. Ta giữ chìa khoá sự chết và địa ngục. Vậy hãy viết những gì ngươi đã thấy, những điều đang xảy ra và những điều phải xảy ra sau này”.

Alleluia: Ga 20, 29

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. – Alleluia.

Tin Mừng: Ga 20, 19-31

“Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con”. Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”. Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”. Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”.
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Ðoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!”
Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.

SUY NIỆM

A/ 5 phút Lời Chúa
B/ TGM Giuse Vũ Văn Thiên
NHỮNG ĐIỀU BẤT NGỜ
Chúa Giêsu đã sống lại. Các tác giả Tin Mừng đều khẳng định với chúng ta điều ấy. Tuy vậy, việc Chúa sống lại không phải được đón nhận một cách dễ dàng. Chính các môn đệ, khi nghe mấy người phụ nữ báo tin Chúa đã sống lại, các ông cũng cho là “vớ vẩn”, nên không tin. Đức tin vào Chúa phục sinh chỉ được củng cố sau khi được kiểm nghiệm. Việc kiểm nghiệm này là việc gặp gỡ Chúa Phục sinh. Tin vào Chúa Phục sinh là một hành trình đầy những khám phá bất ngờ.
Trước hết là những bất ngờ nơi các môn đệ. Trong tâm trạng hoang mang sợ hãi, các ông đóng kín cửa vì sợ người Do Thái. Cùng với những cánh cửa đóng kín, tương lai của các ông dường như cũng khép lại. Chính vào lúc bi quan chán nản ấy, Chúa dành cho các ông một bất ngờ lớn: Người hiện diện giữa họ trong khi cửa vẫn đóng kín. Khi từ cõi chết sống lại, Đức Giêsu đã trở thành Đấng Thần Linh, không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Qua việc tỏ cho các ông thấy những vết thương, Người chứng minh sự hiện diện của Người là bằng xương bằng thịt, là người đã chết trên thập giá trước đó chứ không phải là một bóng ma. Sự bất ngờ này đem lại cho các tông đồ niềm vui mừng khôn tả.
Cùng với điều bất ngờ được gặp lại Chúa Giêsu, Đấng trở về từ cõi chết, các tông đồ còn được nhận Chúa Thánh Thần. Nhờ Chúa Thánh Thần, các ông trở nên mạnh mẽ can đảm. Các ông cũng được soi sáng để hiểu biết sứ vụ thiên sai của Thày mình, đồng thời nhớ lại những giáo huấn của Chúa với một lăng kính mới. Từ nay, các ông hiểu rằng, các ông phải thay Thày mình để điều hành cộng đoàn Kitô hữu non nớt. Họ không còn là những môn đệ phụ thuộc nơi Thày mình, nhưng họ được ban quyền tha thứ và cầm buộc, quyền năng ấy lớn lao đến nỗi các ông tha tội cho ai thì trên trời cũng tha, và các ông ràng buộc ai thì trên trời cũng ràng buộc.
Những ai còn nghi ngờ sự Phục sinh của Chúa, cũng sẽ được gặp những bất ngờ. Tôma đại diện cho những người theo “chủ nghĩa hoài nghi”, tức là chỉ tin vào những gì cảm nhận được bằng giác quan. Ông đã thách thức Chúa: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn, thì tôi không tin”. Lời thách thức mang tính chất gay gắt. Có lẽ khi tuyên bố hùng hồn những lời thách thức này, Tôma không ngờ Chúa lại chấp nhận những thách thức của ông. Vì thế mà tám ngày sau, tức là cũng vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Giêsu hiện đến để chấp nhận những thách thức của ông. Sự việc quá bất ngờ, khiến Tôma không biết phản ứng thế nào, chỉ còn biết quỳ gối xuống với lời tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con”. Lời tuyên xưng của Tôma thể hiện một tâm trạng lúng túng rối bời. Ông đã từng mong ước được nhìn thấy vết đinh, thọc tay vào lỗ đinh và vào cạnh sườn, nhưng nay ông quá bất ngờ khi thấy Chúa. Ông chẳng còn can đảm mà dám làm những điều trước đây ông ước ao, tức là thọc ngón tay và lỗ đình và thọc bàn tay vào cạnh sườn Thày. Những thách thức hùng hồn của kẻ đa nghi sẽ có lúc rã tan khi gặp những bất ngờ.
Những ai tin tưởng phó thác nơi Chúa, sẽ được gặp Ngài. “Phúc cho ai không thấy mà có lòng tin”, Chúa Giêsu đã khẳng định với Tôma điều ấy. Hai mươi thế kỷ sau sự kiện Phục sinh, chúng ta tin vào Chúa Phục sinh mặc dù không được thấy Người bằng con mắt giác quan. Như thế, chúng ta là những người được chúc phúc. Nếu chúng ta không được nhìn thấy Chúa Phục sinh bằng con mắt giác quan, thì Thánh Gioan tông đồ giúp chúng ta chiêm ngưỡng vinh quang của Người. Tác giả được nhìn ngắm Chúa Giêsu, vừa như một Đấng chiến thắng vinh quang, vừa như một Thiên Chúa được tôn thờ ca ngợi bằng một lễ nghi thờ phượng trên trời (Bài đọc II).
Nếu những người xung quanh chúng ta hoặc những người theo chủ nghĩa “đa nghi” không nhìn thấy Chúa Phục sinh, họ có thể thấy Ngài nơi cuộc sống của các tín hữu. Cộng đoàn tín hữu tiên khởi đã làm lan tỏa hình ảnh sống động của Đấng Phục sinh, nên phát triển nhanh chóng. Nhờ Chúa Phục sinh hiện diện nơi các tông đồ, mà các ông có khả năng chữa bệnh và làm những phép lạ hiển hách như Chúa Giêsu đã làm trước khi Ngài chịu khổ nạn và phục sinh (Bài đọc I). Nếu những tín hữu phản ánh hình ảnh của Đức Kitô Phục sinh, những người sống xung quanh chúng ta sẽ có những khám phá bất ngờ về Đức Giêsu và về Giáo Hội của Người. Hôm nay cũng là Chúa nhật kính lòng thương xót của Chúa. Mục đích của việc tôn kính lòng thương xót Chúa là giúp mỗi người nhận ra Chúa là Đấng yêu thương con người và thương xót tha thứ những lỗi lầm của họ. Tình yêu thương ấy được thể hiện và chứng minh qua cái chết và cuộc phục sinh của Đức Giêsu Kitô, đồng thời mời gọi mỗi người tin Chúa hãy thực thi lòng thương xót đối với tha nhân. Việc thực thi lòng thương xót nơi các tín hữu là một bằng chứng hùng hồn về sự hiện diện của Đấng Phục sinh giữa chúng ta.
C/ Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt
HIỆN RA CÙNG TÔMA 
1. Chương 20 của phúc âm thứ tư được cấu tạo thành một khối duy nhất về phương diện văn thể và đề tài. Nó kể lại vài lần hiện ra của Đức Kitô phục sinh ở Giêrusalem. Ý chính của chương này: việc chuyển từ kinh nghiệm thể lý sang đức tin thiêng liêng.
Khi đã để ý đến yếu tố văn thể và giáo thuyết, chúng ta có thể thấy chương 20 được hình thành như sau:
Phần thứ nhất: buổi sáng Phục sinh (20,1-18)
– Đoạn 1: viên đá được lăn ra và ngôi mộ trống (c.1-10); xem Mt 28,1-10; Mc 16,1-8; Lc 14,1-10.
– Đoạn 2: Đức Kitô hiện ra với Maria Madalena (c.11-18; xem Mt 28,9tt; Mc 16,9)
Phần thứ hai: hiện ra cùng các môn đệ (20,19-21)
– Đoạn 1: hiện ra ngày phục sinh của Đức Kitô sống lại cho các môn đồ (c.19-23; x. Mc 16,14; Lc 24,36-49; 1Cr 15,5)
– Đoạn 2: hiện ra sau tám ngày cho Tôma, kẻ cứng tin (c.24-49)
Kết cục: (20,30-31)
Nhìn sơ qua, chúng ta thấy không những hai phần này được đặt gần nhau mà còn được cấu tạo một cách gần như đồng nhất, Tôma chiếm một chỗ quan trọng phần thứ hai. Trong lúc Maria Madalena, trong một giây phút buồn phiền, đã khóc khi thấy mồ trống, Tôma, cách tự phát nhưng bồn chồn, đã hồ nghi thực thể của Chúa Giêsu phục sinh. Vắng mặt khi Phêrô và môn đệ dấu yêu khám phá ra mồ trống và khi Gioan biểu lộ đức tin vào sự phục sinh của Đức Kitô (c.8-9), Maria tuyên xưng đức tin khi Chúa tự mạc khải cho bà (c. 18). Cũng thế, vắng mặt khi Chúa hiện ra ngày phục sinh khi các môn đệ tụ họp, Tôma đã tin cách phấn khởi khi Chúa Giêsu chiếu cố hiện ra với ông tám ngày sau.
Trong cả hai phần, sự kiện hay dịp sờ đến thân xác phục sinh Chúa đều được đặt nổi bật (đối với Maria, x.câu 17; với Tôma x.câu 25 và 27) với một cảm giác thật nhân bản. Ngoài ra đức tin của Maria đã làm bà được sứ mệnh loan báo cho các tông đồ sự sống lại (c.18), trong lúc việc tuyên tín của Tôma khai mào đức tin của những người không thấy mà tin (c.29).
Cuối cùng, mỗi đoạn đều nhắm đến kiệc chuyển từ kinh nghiệm thể lý sang đức tin thiêng liêng: môn đồ dấu yêu tin khi nhìn thấy tấm khăn liệm và dải vải (c.8), Maria tin khi nghe giọng nói quen thuộc của thày gọi tên bà (c.0, các môn đồ tin khi ngắm nhìn tay và cạnh sườn của Đức Kitô (c.20), cuối cùng Tôma tuyên xưng đức tin hoàn toàn vào Đức Kitô phục sinh (c.29) khi nhìn thấy tay chúa và thọc tay ông vào cạnh sườn Ngài (cc.25 và 27). Những tương hợp này chứng tỏ có sự đồng nhất trong việc sắp xếp và khai triển toàn bộ chương 20. Tuy nhiên bắt đầu phần thứ hai, đức tin vào Đức Kitô phục sinh có những chiều kích rộng lớn hơn. Thật vậy, ngoài các vị tông đồ, toàn thể Giáo hội được nổi bật nhờ được sai đi truyền giáo và nhờ việc Chúa Thánh Thần hiện xuống. Cũng thế, đức tin của một Tôma cứng lòng nhưng đã ăn năn gợi lên đức tin của tất cả các tín hữu sau này.
2. “Đoạn Ngài phán cùng Tôma: hãy đem ngón tay ngươi đặt đây, này tay Ta; Hãy đem tay ngươi tra vào cạnh sườn Ta và đừng ở như người cứng tin mà là như người thành tín” (c.27). Phần đầu của câu nói hay là một sự hạ cố đến Tôma hầu như làm ta khó chịu. Chúa Giêsu chấp nhận thách thức mà Tôma đã đòi cho kỳ được: sờ đến Ngài để đảm bảo đó không phải là một hữu thể tưởng tượng nhưng là một con người thật, sống động. Ngược lại, phần thứ hai hàm chứa một lời khuyến cáo đích đáng. Tôma phải trở nên một tín hữu thật sự trong thực thể của Chúa Giêsu phục sinh.
Không có gì trong bản văn cho thấy là vị tông đồ hiểu lời Chúa theo nghĩa đen và thi hành điều mà thày dạy làm. Lời nói mạnh mẽ của Chúa Giêsu đã đủ cho ông. Vì thế Toma trả lời và nói: “Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi”. Lời tuyên xưng đức tin rạng rỡ này, lời xác quyết nặng về phương diện Kitô học phát xuất từ miệng Tôma cứng tin, nói lên sự hiển nhiên của việc phục sinh.
Từ đầu cho đến giờ, không có ai trong phúc âm Gioan gán tước hiệu này cho Chúa Giêsu Kitô. Một cách bộc phát và phấn khởi, Tôma phát biểu đức tin hoàn toàn của mình vào thiên tính của Đức Kitô. Lời tuyên xưng đức tin này là chóp đỉnh, là cao điểm của toàn thể phúc âm thứ tư. Câu “Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi”, vì nặng phần giáo thuyết, đã làm các nhà chú giải để ý nhiều. Tước hiệu “Chúa” (Curios) đã được nghiên cứu rất nhiều. Chỉ cần nhắc lại ở đây là nhiều lần các sách Tân ước đã gán tước hiệu Curios cho Chúa Kitô. Nhưng trong mỗi trường hợp, cần phải xét kỹ để có thể xác định một cách rõ ràng nội dung Kitô học của tước hiệu đó.
Đức Kitô cũng được gọi là Thiên Chúa , nhất là trong các thư mục vụ (Có lẽ trong Rm 9,5 nữa), trong lúc thánh Gioan chỉ gán tước hiệu này hai lần trong 1,1.18 (x.5,18; 10,53). Trong trường hợp chúng ta đây, hai tước hiệu “Chúa” và “Thiên Chúa ” đều được liên kết chặt chẽ trong cùng một câu. Để xác định ý nghĩa đích thực của hai tước hiệu này, một vài tác giả đã nói rằng văn chương ngoại giáo đã dùng tước hiệu đó (Deisman), đặc biệt trong việc sùng bái các hoàng đế vào thời đầu tiên của Kitô giáo (Bauer). Tuy nhiên, hầu như chắc chắn rằng môi trường của câu nói này phải được tìm trước hết trong văn chương Do thái và Thánh kinh. Thật vậy, câu nói này được tìm thấy nhiều lần trong bản dịch Hy lạp 70 (xem nhất là 2S 7,28; 1V 18,39; Tv 30,2; 35,5.24; 125,15; 138,1; Ga 18,17). Có ý nói là Tôma tôn thờ Đức Kitô, Chúa Con, với những lời mà người Do thái có thói quen dành để tôn thờ Thiên Chúa. Như thế, Tôma đi trước thánh Stephano, người khi chịu tử đạo, sẽ phó dâng tâm hồn mình cho Chúa Giêsu như cho Thiên Chúa (Cv 7,59).
3. Theo từ ngữ nay thành cổ điển của Origène, phúc âm thứ tư là “phúc âm thiêng liêng” (x. Eusèbe de Kesarée, Hist.Eccl. VI,14,7). Hơn cả phúc âm nhất lãm, thánh Gioan, thần học gia, đã nhấn mạnh đến các thực thể cao quí nhất cấu tạo nên đời sống Kitô hữu: tin, đời sống thần linh, ân sủng, ánh sáng. Ông có tài hiểu được ý nghĩa thiêng liêng của các sự kiện và biến cố cùng khám phá ra những mầu nhiệm linh thiêng của chúng. Tất cả đều xảy ra trên bình diện cao quí của tâm hồn, của việc chúng ta được kết hợp trong ân sủng với Chúa Cha nhờ Đức Kitô. Tuy nhiên, sự sống của Thiên Chúa trong chúng ta dù cao quí đến đâu, cũng không xóa bỏ được bản tính cùng thực tại thể lý. Cần phải luôn lặp lại điều này: Gioan không giảng đến một thần học thiêng liêng mà không liên quan đến lịch sử; sứ điệp thiêng liêng của ông giả thiết và đòi hỏi phải có các chứng nhân mắt thấy tai nghe.
Như thế, một khi đã để ý đến công trình khảo cứu hiện thời của khoa phê bình văn hình sử (Formgeschichte), và độc lập với mọi cuộc tranh luận về sự sống lại như một sự kiện lịch sử, chúng ta không thể hoài nghi là chính Gioan đã lưu tâm nhiều đến các chứng từ liên quan đến những lần hiện ra của Đức Kitô.
Những lần hiện ra của Đức Kitô ngày phục sinh và 8 ngày sau, việc nhấn mạnh đặc biệt về sự kiện Chúa Giêsu chỉ các thương tích và cạnh sườn Ngài cho các môn đệ và cho Tôma, chúng tỏ cách rõ ràng rằng đối với Gioan, Đức Kitô vinh hiển và Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết là một. Gán cho những trình thuật của Gioan về các lần hiện ra một ý nghĩa hoàn toàn tượng trưng là cưỡng chế bản văn. Vì thế chúng ta không chấp nhận lời chú giải nổi tiếng của Bultmann: “Bài tường thuật về Tôma cũng như bài tường thuật về Maria Madalena… chỉ có một giá trị tương đối…(chúng ta phải coi chúng) như là một lời trong đó các biến cố được kể lại đã trở thành những hình ảnh biểu tượng cho cộng đoàn” (R.Bultmann, The Gospel of John, Oxfort, Elackwell,1971 tr.696).
Lời xác quyết này lại càng đáng ngạc nhiên và gây sửng sốt khi tác giả phúc âm thứ tư, hơn các phúc âm nhất lãm, đặc biệt làm nổi bật tính cách thể lý của thân xác Đức Kitô trong những lần hiện ra. Tại sao Gioan, thần học gia, tác giả phúc âm có tính cách thiêng liêng nhất, lại nhấn mạnh nhiều đến đặc tính nhân loại của Đức Kitô sau khi sống lại? Ngoài ra chúng ta phải thành thật tự hỏi tại sao Gioan suốt cả cuốn phúc âm, thường chú trọng đến vinh quang hiển nhiên và thần linh của Đức Kitô, lại tránh ám chỉ đến vinh quang này trong những lần hiện ra, ngược hẳn với Mt? Khó có thể tìm ra câu trả lời. Đây là câu trả lời: vì Gioan – tác giả phúc âm thiêng liêng nhất, tự cảm thấy cần phải nhấn mạnh phải đến sự kiện Đức Kitô đi vào vinh quang bên cạnh Chúa Cha, nhưng đến mọt sự kiện khác đã đánh động ông nhất với tư cách là nhân chứng tận mắt: Đức Kitô giờ đây, cũng như trước khi tử nạn, tiếp tục tiếp xúc cá nhân với các môn đồ của Ngài, với Tôma.
4. “Còn nhiều dấu lạ khác nữa…”: Gioan, khi kết thúc tác phẩm của ông, biết rằng tác phẩm đó chưa chấm dứt. Nhưng có khi nào người ta viết cạn ý một quyển sách không? hay hơn nữa, có bao giờ có thể minh chứng xong xuôi đức tin của ta không? Chúa Giêsu đã nói trong bài tạ từ: “Thày còn nhiều điều phải nói với các con…” (Ga 16,2). Với hình ảnh Chúa Giêsu ao ước mạc khải Chúa Cha cho thế gian – thế gian với tinh thần ích kỷ hay với tâm hồn quá tự mãn để có thể đón nhận đức tin – Gioan nóng lòng trình bày cho độc giả con người của Chúa Giêsu trong chiều kích thật sự của Ngài, con người gây nhiều ngạc nhiên vì là thần linh, Gioan có cảm tưởng tác phẩm của mình chỉ là nét phác họa đơn sơ. Không phải là ông không nói hết: thật ra còn nhiều dấu lạ khác…(x. Hđ 43,27; 1M 9,22), nhưng nhất là vì trình thuật không bao giờ có thể trình bày đủ.
Cuối cùng, ông có thể làm gì nếu không phải là thuật lại các dấu chỉ? Chúng ta hãy nhớ lại các dấu chỉ có tính cách thiên sai ở phần đầu trong đời công khai (Ga 2-4). Ở đây quan niệm này hiểu rộng ra: nó bao gồm những phép lạ (dấu chỉ và công việc 12,37) cũng như lời nói và cả cuộc đời công khai của Chúa Giêsu. Lời nói và phép lạ luôn đi đôi với nhau, tạo nên một khối (12,38); cả hai soi sáng cho nhau vì phép lạ và lời nói chỉ là những dấu chỉ nói lên con người thiêng liêng của Chúa Giêsu. Người ta chỉ có thể dừng lại nơi những biểu lộ bên ngoài và kêu lên: “Phi thường thay, những phép lạ đó. Ý nghĩa tôn giáo sâu xa thay, những lời nói đó”. Bao lâu lời nói và phép lạ không gợi được cho độc giả con người thiêng liêng của Chúa Giêsu, bấy lâu chúng không đạt được mục đích. Gioan, với tư cách là tín hữu đích thực và văn sáng suốt, biết chắc rằng thực tại trổi vượt hơn hình ảnh được diễn tả. Vì thế ông tha thiết kêu xin độc giả đừng dừng lại nơi dấu chỉ, nhưng phải đạt đến sự vật được dấu chỉ diễn tả, như ông đã làm dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần.
Độc giả cần phải có đức tin, phúc âm không được viết ra như một lời biện hộ gởi đến người không tin, trong trường hợp này, Gioan có lẽ chứng tỏ mình thiếu chiến thuật. Thật vậy, cho dù dán mắt vào các sự kiện, ông không quan sát chúng trên phương tiện thuần lý, nhưng dưới ánh sáng của đức tin do Thánh Thần cổ võ và soi sáng. Gioan cho các tín hữu đã tin, nhưng ông báo cho biết không bao giờ họ đi đến mút cùng đời sống đức tin của họ đâu. Dấu chỉ luôn bao hàm một thực thể không bao giờ cạn đối với ai muốn tin nhiều hơn. Đi từ lòng tin vào tính cách thiên sai của Chúa Giêsu, tính cách đã được đưa ra ánh sáng trong phần đầu của phúc âm (Ga 2-4) và được củng cố do phản ứng đức tin đầu tiên của cộng đoàn Kitô hữu (Cv 2,36), người Kitô hữu phải đào sâu lòng tin vào tử hệ thần linh của Chúa Giêsu, mối tử hệ được mạc khải vào giờ tôn vinh. Và đức tin càng đâm rễ sâu, thì sự sống thần linh và không thể phá hủy càng được trao ban nhờ danh – hay con người – Chúa Giêsu, vì Chúa Cha đã ban cho Chúa Giêsu danh Người (17,11-12) và quyền thông sự sống thần linh vĩnh cửu. Ai tin vào danh Chúa Giêsu thì nhờ Ngài sẽ được sống muôn đời (1,12; 3,15-18; 12,50; 1Ga 5,13)
Không! Tin mừng không thể chấm dứt: là một tuyển tập các dấu chỉ, phúc âm vẫn còn là như vậy bao lâu lòng tin của độc giả chưa đạt đến đích. Và đích này khi nào sẽ đạt được? Khi người tín hữu thấy vinh quang của Chúa Giêsu mà Chúa Cha ban cho Ngài khi Ngài trở về cùng Cha, thứ vinh quang thần linh đã hiện hữu trước mọi thời gian (17,24)
KẾT LUẬN
Từ đây đức tin không dựa trên cái nhìn, nhưng dựa trên chứng tá của những người đã thấy; chính nhờ đức tin này mà các tín hữu kết hiệp sâu xa với Đức Kitô phục sinh (17,20).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Phản ứng của Toma khi thấy các tông đồ báo tin cho ông việc Chúa Giêsu hiện ra cho chúng ta thấy khía cạnh đầu tiên trong hoạt động của “thế gian”. Vì việc sống lại của Chúa Giêsu vừa khó tin vừa gây bực bội, nên ta thường bị cám dỗ không chấp nhận. Cũng thế, Tôma giới hạn tri giác về thực tại và khả năng tri thức vào tiêu chuẩn của kinh nghiệm hay của khả năng suy tư. Những gì ông không thể hiểu, không thể sờ đến, đo lường, đều bị ông từ chối. Đó là tinh thần của thế gian muốn kéo lôi tất cả đến với nó và chỉ chấp nhận những gì nó chứa đựng.
2. Đức tin luôn bao hàm sự liều lĩnh, bởi lẽ nó không tự áp dụng bằng kinh nghiệm hay lý luận. Đức tin trở nên khó khăn đối với Tôma, thì cũng khó khăn đối với tất cả chúng ta. Đức tin dạy điều khó tin vì giả thiết một sự vượt quá thường xuyên con người chúng ta, vì đức tin là một sự tăng trưởng, một bước tiến đến Đấng nào đó luôn bí ẩn, luôn gây ngạc nhiên.
3. Đức tin không những là một sự liều lĩnh mà còn là một cuộc chiến, một trận đấu. Đức tin không có gì là thoải mái tiện nghi; nếu đức tin xây dựng và tái tạo chúng ta, điều đó có thể thực hiện nếu chúng ta biết từ bỏ chính mình. Thế gian mà đức tin sẽ toàn thắng không phải là một thực thể trừu tượng, xa vời. Thế gian đó, là chính chúng ta với những sợ hãi, lo âu, khoe khoang, ghen ghét, tham vọng và quyến luyến. Bao lâu còn bám chặt thế gian, bấy lâu chúng ta còn bị thống trị. Và chúng ta hoàn toàn giống nhau, nên chúng ta thường biện minh cho nhau, tự làm cho mình ra vô tình và không áy náy trong việc bất tuân lời Chúa và khuyến khích nhau từ bỏ đức tin; thế gian cũng như não trạng tập thể của xã hội thấm nhiễm vào chúng ta đến nỗi nếu phải suy nghĩ hay sống khác biệt với tập thể này, chúng ta có cảm tưởng là mình theo tư tưởng của riêng mình, là không liên đới với những người khác và phá hủy một cái gì cao quí và cần thiết.
4. Tôma thật đáng quí vì tôi nhận ra tôi trong ông; nếu tôi gặp nhiều khó khăn thực sự khi phải chấp nhận tất cả dưới lý do là vì Giáo hội dạy; tôi lại ít sẵn sàng chấp nhận khi thấy Giáo hội không sống như lời giáo hội nói. Nếu là chân lý, tại sao giáo hội không sống phù hợp hơn với điều Giáo hội giảng? Trong những lúc nghi ngờ và khủng hoảng như thế, hãy lặp lại lời nguyện khiêm nhường của Phúc âm “Lạy Chúa, con tin, nhưng xin ban thêm đức tin cho con”.
5. Chúa Giêsu 3 lần nói cùng chúng ta trong đoạn phúc âm này: “Bình an cho các con”. Ngày nay, trong thế giới và Giáo hội với những lao động bất công và bạo hành, ước gì chúng ta sống trong bình an mà Đức Kitô phục sinh ban cho; chỉ khi nào đức tin toàn thắng thế gian trong con người chúng ta, khi đó chúng ta mới là kẻ xây dựng an bình.

 

D/ Lm. PX Vũ Phan Long, ofm
LUÔN LUÔN CẦN NHỮNG DẤU CHỈ, NHƯNG CŨNG PHẢI LUÔN LUÔN VƯỢT QUA CÁC DẤU CHỈ
1.- Ngữ cảnh
Dựa theo bố cục tổng quát của TM Ga, đoạn văn này nằm trong chương 20 là chương cuối cùng của phần B (Sách về Giờ của Đức Giêsu), kèm theo lời kết cho thấy mục tiêu của tác giả khi viết Tin Mừng.
Trong tình trạng tranh tối tranh sáng lúc bình minh, Maria Mácđala đi đến mộ Đức Giêsu và thấy mộ đã được mở và trống không. Cho tới nay, có hai sứ điệp của Đức Giêsu Phục Sinh đã bao trùm ngày Phục Sinh (20,2.17). Vào buổi chiều ngày dài này, Đấng Phục Sinh đã đến gặp các môn đệ Người. Người gặp họ khi họ đang ở trong phòng cửa đóng kín: họ còn đang ở trong mộ của nỗi sợ hãi, chứ chưa được thông dự vào sự sống của Người. Đức Giêsu đã đưa các môn đệ ra khỏi tình trạng bế tắc do phản bội, do sợ hãi. Và Người đã trao sứ mạng để các ông trở thành sứ giả đi khắp nơi mà ban ơn tha tội, ban sự bình an.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ không có Tôma (20,19-23):
a) Lời chào “bình an” thứ nhất với việc chứng minh (cc. 19-20),
b) Lời chào “bình an” thứ hai với sứ mạng (cc. 21-23);
2) Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và Tôma (20,24-29):
a) Tôma không tin anh em (cc. 24-25),
b) Đức Giêsu và Tôma (cc. 26-31);
3) Kết luận Kitô học: Tóm tắt mục tiêu sứ mạng của Đức Giêsu (20,30-31).
3.- Vài điểm chú giải
– Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần (19): Cuộc hiện ra xảy ra tại Giêrusalem vào ngày Chúa Nhật. Bản văn Lc 24,33-49 cho biết Đức Giêsu hiện ra vào buổi chiều, bởi vì vào lúc xế chiều, Người đã ngồi ăn với hai môn đệ tại Emmau, rồi hai ông đã trở lại Giêrusalem ngay trước khi Đức Giêsu hiện ra với cả nhóm. Rất có thể tác giả dùng từ ngữ “ngày ấy” mà chỉ ngày Chúa Nhật ấy là có ý coi đây là ngày cánh chung, ngày mà Đức Giêsu ban Thánh Thần để ở lại mãi mãi với các môn đệ (xem thêm cc. 14,20; 16,23.26).
Tác giả dùng công thức “Ngày thứ nhất trong tuần” cho cả hai lần hiện ra ở đây (lần sau đúng một tuần sau) rất có thể là vì ông muốn nhắc đến thói quen của các Kitô hữu cử hành Thánh Thể vào “ngày thứ nhất trong tuần” (Cv 20,7; xem thêm 1 Cr 16,2).
– các cửa đều đóng kín (19): Lý do nêu ra trong bản văn là “vì các ông sợ người Do Thái”, nhưng có lẽ tác giả cũng còn muốn cho thấy là thân thể Đức Giêsu Phục Sinh có thể đi qua cửa đóng kín. Đây cũng có thể là một ghi nhận về hoàn cảnh hiện tại của các môn đệ.
– Bình an cho anh em (19): Trong tiếng Hípri, shâlôm (= bình an, HL eirênê) là một lời chào thông thường. Nhưng trong văn cảnh long trọng ở đây, lời của Đức Giêsu có ý nghĩa khác, không phải chỉ là “Cầu chúc anh em được bình an”, như thể họ còn phải chờ đợi sự bình an đến trong tương lai. Ở đây, lời Đức Giêsu nói là một nhận định về thực tại: chắc chắn họ đang có sự bình an của Người.
– Như Chúa Cha đã sai Thầy (21): Trong các Tin Mừng khác, cũng có lời sai đi này (x. Mt 28,19; Lc 24,47), nhưng ở đây, mẫu mực cho việc sai đi là quan hệ của Con với Cha (một đề tài thần học của Ga, xem 17,18).
– Người thổi hơi vào các ông… Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần (22): Hành động này nhắc nhớ đến làn hơi sáng tạo của Thiên Chúa trong St 2,7. Làn hơi của Đức Giêsu chính là Thánh Thần. Trên thập giá, Người đã “trao Thần Khí” (paredôken to pneuma; trước đây, vì không quan tâm đến thần học của tác giả Ga, người ta đã dịch là “trút hơi thở”) (19,30): Người đã trao ban Thánh Thần cho những người đứng dưới chân thập giá, đặc biêt cho thân mẫu Người, tượng trưng Hội Thánh hoặc Dân mới của Thiên Chúa, và cho người môn đệ Người thương mến, tượng trưng các Kitô hữu.
– Anh em tha tội cho ai …; anh em cầm giữ ai… (23): Câu này có vọng lại Ds 22–24 bằng tiếng Hy Lạp (Bản LXX), Truyện Bilơam: chẳng hạn so sánh Ga 20,23 // Ds 22,6 LXX. Theo bản văn Hípri, vua Balác xác tín rằng “kẻ nào bị ông nguyền rủa thì mắc họa/bị nguyền rủa” (Ds 22,6 Hípri), nghĩa là sẽ bị nguyền rủa qua lời nguyền Bilơam tuyên bố. Ông không bận tâm với quyền năng của Thiên Chúa Israel, là Đấng có đồng ý thì Bilơam mới có thể chúc phúc hoặc nguyền rủa (Ds 22,12; 23,8). Ngược lại, trong bản văn Hy Lạp, lời của Balác ở 22,6 có một ý nghĩa có thể giải thích theo hai hướng: có thể hiểu “được phúc” (eulogêntai) và “mắc họa/bị nguyền rủa” (kekatêrantai) vừa theo nghĩa một hậu quả sẽ xảy ra trong tương lai gần (bản văn Hípri: dạng phân từ và vị hoàn), vừa theo nghĩa một lời thú nhận không chủ ý rằng chỉ những ai đã được Thiên Chúa chúc phúc hoặc bị Thiên Chúa nguyền rủa thì Bilơam mới có thể chúc phúc hoặc nguyền rủa. Đó chính là điều Thiên Chúa đã nói với Bilơam: “Ngươi không được đi với chúng! Không được nguyền rủa dân đó, vì nó đã được chúc phúc (estin gar eulogêmenon)”. Bilơam không thể nguyền rủa kẻ đang sống trong tình trạng được chúc phúc, từ đó chúng ta hiểu là kẻ nào ông nguyền rủa được, kẻ ấy đã đang bị Thiên Chúa nguyền rủa rồi. Balác đã nói như thế và ông có lý, mà ông không biết.
Dạng hoàn thành apheôntai (“được tha”) và kekratêntai (“bị cầm giữ”) ở Ga 20,23 có thể được hiểu như thế.
– Chúng tôi đã được thấy Chúa (heôrakamen ton kyrion, 25): Heôrakamen là thì hoàn tất của động từ horaô, diễn tả việc “thấy” kèm theo sự hiểu biết thật sự.
– Nếu tôi không thấy dấu đinh… (25): Đây là lời Tôma khẳng định rằng ông không tin, hoặc để ông tin, Đức Giêsu cũng phải hiện ra với ông, như đã hiện ra với các môn đệ kia. Đức Giêsu đã đáp ứng yêu cầu của ông, Người đã mời ông làm như ông nói lúc này, để có thể tin.
– Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin (27): Dịch sát là “đừng cứ tiếp tục không tin nữa, nhưng hãy bắt đầu tin đi”. Đức Giêsu mời Tôma thay đổi thái độ.
– Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con (28): Đây vừa là một tiếng kêu vừa là một hô-cách dưới dạng chủ-cách (= “Lạy Chúa và lạy Thiên Chúa của con!”) vừa là một lời tuyên xưng đức tin (= “Ngài là Chúa và Thiên Chúa của con”) độc đáo chưa ai làm. “Chúa của con” nhắm đến Đức Giêsu của lịch sử, còn “Thiên Chúa của con” là một lượng định mang tính thần học về bản thân Người. Tuyên xưng Đức Giêsu là “Đức Chúa” thì Maria Mácđala và các môn đệ đều đã làm (20,18.25); nhưng tuyên xưng vị “Chúa tể” này là “Thiên Chúa”, thì chỉ có Tôma mới làm ở đây. Vì thế, cũng có thể hiểu câu này là một phép thế đôi (hendiadys): “Chúa của con” cũng là “Thiên Chúa của con”.
– là để anh em tin rằng (31): Bản văn Hy Lạp ghi “để anh em tin” là hina pisteu[s]ête (với con chữ sigma nằm trong ngoặc đơn), tức là có thể đọc hina pisteusête hoặc hina pisteuête. Cả hai cách đọc đều có thể chấp nhận, nhưng đưa tới hai ý nghĩa rất khác nhau:
(1) Cách đọc thứ nhất, hina pisteusête (subjunctive aorist): Cách đọc này có thể dịch ra như sau: “để anh em có thể đi đến đức tin”. Trong trường hợp này, mục tiêu của bài tường thuật là truyền giáo. Những người nhận bản văn hẳn là những người ở bên ngoài cộng đoàn Kitô hữu.
(2) Cách đọc thứ hai, hina pisteuête (subjunctive present): Cách đọc này có thể dịch ra như sau: “để anh em tiếp tục tin”. Trong trường hợp này, mục tiêu của bài tường thuật chỉ là khuyến thiện. Những người nhận bản văn hẳn là những người thuộc về cộng đoàn Kitô hữu.
Cho dù cách hợp lý hơn là cách đọc thứ hai, ta cũng không thể chỉ vì có hoặc không có một con chữ sigma (s) mà phân biệt để xác định rằng mục đích của tác phẩm là truyền giáo hay không. Ta còn phải khảo sát tất cả các cách dùng liên từ hina, rồi khảo sát cấu trúc văn chương tổng quát của tác phẩm. Dù sao, khi nghiên cứu TM IV kỹ càng hơn, ta có thể nghĩ rằng tác phẩm được ngỏ với những người đã là Kitô hữu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong cả hai lần Đức Giêsu hiện ra, thời gian là “ngày thứ nhất trong tuần”, “ngày của Chúa”, ngày Chúa Nhật. Người chào các môn đệ với những lời như nhau, “Bình an cho anh em!”. Đây là cuộc gặp gỡ hàng tuần của cộng đoàn Kitô hữu. Đức Giêsu Phục Sinh tỏ mình ra cho các môn đệ của Người.
* Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ không có Tôma (19-23)
Các môn đệ đang sống trong căn nhà cửa đóng then cài, “vì sợ người Do Thái” (c. 19). Điều này hiểu được sau khi Đức Giêsu qua đời, nhưng có lẽ cũng phản ánh hoàn cảnh của các môn đệ vào lúc Gioan viết Tin Mừng. Nhiều lần, trong tác phẩm, ta thấy những ai thuộc về nhóm Đức Giêsu đều sợ bị đuổi ra khỏi hội đường (x. 9,22).
Các môn đệ lúc này không còn là mười hai nữa, mà là mười một, rồi đọc thêm nữa thì thấy chỉ còn có mười. Khi hiện ra, điều đầu tiên Đức Giêsu làm là cho các môn đệ thấy rằng các ông có Người đang sống giữa các ông. Rồi Người nói: “Bình an (eirênê) cho anh em!” (c. 19). Không chỉ nói về bình an, Người còn cung cấp nền tảng chắc chắn cho lời của Người: các vết thương (tay [chân] và cạnh sườn). Vậy Người chính là Đấng đã chết trên thập giá, nhưng Người đã thắng cái chết. Không có sự buồn phiền khi trông thấy các dấu vết của cuộc Thương Khó. “Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa” (c. 20). Chỉ có niềm vui bởi vì thời điểm tiêu cực cuộc cuộc Thương Khó đã bị vượt qua. Các môn đệ vui mừng bởi vì Đức Giêsu vui mừng và chuyển thông niềm vui cho họ. Các ông cũng vui mừng bởi vì Đức Giêsu đã hoàn tất sứ mạng của Người.
Đức Giêsu lại ban cho sự bình an cho các ông một lần nữa, rồi cho các ông được thông phần vào chính sứ mạng, chính sự sống và quyền của Người là tha tội. Sau khoảnh khắc nhận biết, như trong trường hợp Maria Mácđala, bây giờ đến một loại tương quan khác. Ở c. 20, Đức Giêsu nói tiếp: “Như (kathos) Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (c. 21). Chỉ là một chuyển động duy nhất: Trong tư cách Chúa Con, Người làm chứng về Chúa Cha; trong tư cách môn đệ Người, các môn đệ đi làm chứng về Người và đưa người ta tới chỗ tin vào Người, để rồi trong Người, các ông được thông hiệp với Chúa Cha. Điểm này rất quan trọng: tất cả những gì các môn đệ làm, các ông không tự mình mà làm, nhưng làm theo lệnh Đức Kitô.
Thế rồi để các ông chu toàn được sứ mạng, Đức Giêsu ban cho các ông Chúa Thánh Thần: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (c. 22). Chính Thánh Thần sẽ ban cho các môn đệ sức mạnh để làm chứng “ad extra” (hướng ra bên ngoài). Nhưng không chỉ có thế. Dấu chỉ cụ thể của ân ban này là sự tha tội: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (c. 23). Nối tiếp sứ mạng của Người, các môn đệ sẽ tha tội và cầm buộc. Có dây liên kết rõ ràng giữa ân ban Thánh Thần và quyền tha tội để xây dựng nội bộ cộng đoàn. Đều này nêu bật chiều kích “ad intra” (hướng vào bên trong). Sứ mạng và sự tha tội đi chung với nhau và là hoa trái của cùng một Thánh Thần do Đức Giêsu ban tặng.
Ở trong một thế giới đang làm cho các ông phải lo sợ, các ông đã có ở giữa mình Đấng chiến thắng thế gian (x. 16,33) và được đầy sự bình an và niềm vui của Người. Đức Giêsu đã mở cửa ra cho các ông và làm cho các ông có thể đi vào thế giới và mang các ân huệ đến cho thế giới. Các môn đệ không được khép mình lại trong nỗi sợ hãi trước thế giới, nhưng phải đầy tin tưởng đi vào thế giới.
* Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và Tôma (24-29)
Khi Đức Giêsu đến, Tôma, một trong Nhóm Mười Hai, không ở với các môn đệ. Các môn đệ đã gặp Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra và được Người sai đi (cc. 19-23) đảm bảo với Tôma rằng: “Chúng tôi đã được thấy Chúa (heôrakamen ton kyrion)!” (c. 25). Đây không phải chỉ là lời chia sẻ thông tin về một sự kiện, mà còn là một lời tuyên xưng đức tin: các ông (“chúng tôi” , tương tự cộng đồng Hội Thánh) đã thấy Thầy, mà các ông gọi là “Chúa” (danh xứng của Đức Giêsu sau Phục Sinh), và các ông đã hiểu, đã tin. Nhưng Tôma không tin anh em; ông nêu ra những điều kiện: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (c. 25). Tôma muốn làm cho rõ ra là Đấng Phục Sinh chẳng phải là ai khác, mà chính là Đấng đã chịu đau khổ và đã chết, là đây không phải là một Giêsu khác, nhưng vẫn là Giêsu như trước đây. Trách Tôma cứng tin, hay không hiểu gì cả, là quá đáng! Ông muốn có một kinh nghiệm cá nhân, ông muốn chính ông đạt tới đức tin. Đức Giêsu đã chấp nhận các điều kiện của ông. Người chấp nhận tỏ mình ra theo cách có thể giúp Tôma nhận biết Người.
Đức Giêsu lại hiện ra với các môn đệ, và cũng như lần trước, Người ban bình an, sự vững vàng an toàn và sự che chở. Rồi Người ngỏ lời với Tôma. Làm sao Người biết những chuyện đã xảy ra? Chúng ta không biết, vì bản văn không nói, nhưng khả năng hiểu biết này của Đức Giêsu chứng tỏ rằng kể từ nay, Người hiện diện gần gũi với các môn đệ, cho dù về thể lý, họ không nhìn thấy Người. Người bảo Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy” (c. 27). Người cho Tôma thấy những dấu chỉ của cái chết và tình yêu của Người, và cũng chứng minh rằng Người là nguồn mạch ơn cứu độ. Có người cho rằng Tôma đã đưa tay chạm tới Đức Giêsu. Hẳn là không cần như thế. Tôma đã tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, một lời tuyên xưng chưa hề có ai nói lên: “Lạy Chúa của con và là Thiên Chúa của con” (c. 28). Ông đi theo một lộ trình dài hơn mọi anh em, nhưng ông đã đến gần Đức Giêsu hơn mọi anh em. Vì đối với cá nhân ông, Đức Giêsu là Đức Chúa và Thiên Chúa. Người là Đức Chúa, có quyền năng cứu độ. Quan hệ với Người có tính vững bền trọn vẹn mãi mãi vì Người là Thiên Chúa.
Sau đó, Đức Giêsu đã đưa ra một sự đối lập giữa “thấy” (horaô) và “tin” (pisteuô) (cc. 8b.18.20b.25ab.27.29ab; x. 1,45; 4,50), và nhìn đến các thế hệ tín hữu tương lai. Kể từ nay, chứng từ về kinh nghiệm mà các môn đệ đã có về Đức Giêsu Phục sinh phải là động lực đưa moi người đến đức tin, chứ không phải là kinh nghiệm về một cuộc hiện ra trực tiếp của Đấng Phục Sinh hay về một thánh tích.
* Kết luận Kitô học: Tóm tắt mục tiêu sứ mạng của Đức Giêsu (30-31)
Cuối cùng, tác giả TM IV tóm tắt mục tiêu của công trình của Đức Giêsu và cho thấy, đối với những người không được thấy, đâu là nẻo đường đưa tới đức tin. Các tín hữu hôm nay được mời gọi tin vào Đức Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Đức tin nối kết chúng ta với Người, và nhờ Người là Chúa Con, chúng ta được đưa vào thông hiệp với Chúa Cha. Đó là sự sống đời đời.
Phải chăng ở đây có nguy cơ chủ quan? Chính là xuyên qua tính chủ quan mà ta đạt được tính khách quan. Kinh nghiệm đức tin của một người riêng lẻ phải được đối chiếu với kinh nghiệm đức tin của cộng đoàn. Đức tin của một người tự nó không đủ. Chứng từ của cộng đoàn luôn cần để bảo đảm cho đức tin của từng người. Tuy nhiên, đức tin của cộng đoàn không bao giờ thay thế đức tin của từng người. Nếu TM IV có nhấn mạnh là nhấn mạnh trên điểm này: chiều kích cá vị của tương quan với Đức Giêsu Phục Sinh.
+ Kết luận
Chúng ta có thể đọc bản văn trên đây như một bức tranh bộ đôi: trong tất cả các bài tường thuật này, ta ghi nhận chiều kích cá vị trong tương quan với Đức Giêsu. Ân ban căn bản của Đấng Phục Sinh là sự bình an (20,19.21.26). Ngay trong các diễn từ cáo biệt, Đức Giêsu đã hứa ban sự bình an này cho các môn đệ. Người có tư cách để ban sự bình an này vì Người về cùng Chúa Cha (14,27) và vì Người thắng thế gian (16,33). Nay Người đã thực sự thắng cái chết, là dấu chỉ tối hậu về sức mạnh tiêu diệt của thế gian, và đã thật sự lên cùng Chúa Cha. Người đã đạt tới mục tiêu của Người, Người lại đang sống giữa các môn đệ trong tư cách là Đấng chiến thắng. Chính Người là nền tảng của sự bình an của các ông.
Đã nhận được các lời chứng của các môn đệ, kinh nghiệm của Tôma, các Kitô hữu hôm nay được mời gọi xác tín: quả thật, Đức Giêsu là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, và hãy tin vào Người. Niềm tin nối kết họ với Người, và nhờ Người là Chúa Con, các Kitô hữu được đưa vào hiệp thông với Thiên Chúa Cha.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Các môn đệ của Đức Giêsu cần xác tín rằng Đấng đang sống giữa họ cũng chính là Đấng đã chết trên thập giá; các ông cũng phải nhận biết rằng Người vẫn mang những vết tích của cuộc Thương Khó, dù đã sống lại; Người chính là “Con Chiên đứng như thể đã bị giết” (Kh 5,6). Các vết thương ấy là dấu chứng tỏ tình yêu vô biên của Người, nhưng cũng là dấu cho thấy sự tàn ác của loài người: dấu của tình yêu vô biên, để họ luôn luôn tin tưởng dấn thân; dấu của sự tàn ác con người, để họ có cái nhìn thực tế, biết rằng mình dấn thân vào trong thế giới nào.
2. Tôma đã tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu theo cách chưa ai làm: “Lạy Chúa của con và lạy Thiên Chúa của con”. Ông đã đi theo con đường dài hơn con đường của các anh em, nhưng đã đến gần Đức Giêsu hơn. Đối với cá nhân ông, Đức Giêsu là Đức Chúa và là Thiên Chúa. Ông tin, ông quy phục Đức Giêsu, ông bày tỏ niềm tin vào Người. Maria Mácđala cũng như các môn đệ đã tin vào Đức Giêsu như là Đức Chúa. Tương quan của họ với Người nay có giá trị vĩnh viễn và trọn vẹn, bởi vì Đức Chúa ấy chính là Thiên Chúa. Đức Giêsu chính là Thiên Chúa đang tìm đến gần con người để ban cho con người sự sống đời đời. Tôma nhận biết Đức Giêsu như thế và gắn bó với Người. Do đó, người nào chỉ nói đến một Tôma thiếu lòng tin, là quên mất là ông đã đạt đến niềm tin nào nhờ sự trợ giúp của Đức Giêsu. Thật ra các tông đồ đều thấy tin vào sự Phục Sinh là điều không dễ chút nào!
3. Chúng ta thấy Đức Giêsu để cho mình được nhận biết bởi bà Maria Mácđala, bởi người môn đệ Người yêu mến và bởi Tôma theo cách khác nhau. Đây là nét đặc trưng của Tin Mừng Gioan. Các “dấu chỉ” hoặc các “bằng chứng”, được thích ứng với từng người. Đức Giêsu thuận theo các đòi hỏi của mỗi người. Rồi Người đưa mỗi người đến với đức tin ở bên kia các dấu chỉ ấy. Luôn luôn cần những dấu chỉ, nhưng cũng phải luôn luôn vượt qua các dấu chỉ. Đàng khác, kinh nghiệm đức tin của mỗi người phải được đối chiếu với kinh nghiệm đức tin của cộng đoàn.
4. Nghe lời “Phúc cho những người không thấy mà tin”, chúng ta cảm thấy phấn khởi vì chúng ta đâu có được thấy Đức Giêsu bằng xương bằng thịt! Nhưng tại sao lại “có phúc” có lẽ chúng ta nghĩ rằng bởi vì tin dù không thấy thì khó hơn, nên có công trạng hơn. Thật ra, “có phúc” là vì niềm tin này trung thực hơn, tinh trong hơn. Người nào thấy thì đã có sự chắc chắn, có chứng cớ không thể chối cãi về một sự kiện, nhưng như thế thì không phải là đức tin.
5. Hôm nay, ngày lễ “Lòng Thương xót Chúa” mà Đức cố giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã thiết lập ngày 30-4-2000, chúng ta nhớ đến hình ảnh Đức Giêsu từ bi thương xót do thánh Faustina Kowalska (1905-1938; Đức Gioan-Phaolô II phong thánh 30-4-2000 và thiết lập lễ Lòng Thương Xót Chúa) để lại: Người mặc y phục trắng, bàn tay phải ban phép lành, bàn tay trái vén mép áo ngực, từ đó thoát ra các tia sáng xám và đỏ, tượng trưng Bí tích Thánh Thể và Bí tích Rửa Tội. Đức Giêsu là hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy cùng với thánh nữ Faustina Kowalska và Đức Gioan-Phaolô II thưa với Người: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Người!” Chúng ta hãy trởthành hiện thân của Lòng Chúa thương xót qua lối sống hợp nhất, chia sẻ nâng đỡ nhau, sẵn sàng tha thứ cho nhau.

 

E/ Những Bài Suy Niệm Khác
BÌNH AN CỦA CHÚA LÀ ĐIỀU TỐI Ư CẦN THIẾT
BÌNH AN CỦA ĐỨC KITÔ PHỤC SINH
LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA
RAO GIẢNG TIN MỪNG
NHỜ CHÚA PHỤC SINH, GIÁO HỘI SƠ KHAI PHÁT TRIỂN MẠNH MẼ

Bài Viết Cùng Chuyên Mục

Chúa Nhật Chúa Thánh Thần Hiện Xuống

Chúa Nhật Chúa Thánh Thần Hiện Xuống

Thứ Bảy, Tuần VII Phục Sinh

Thứ Bảy, Tuần VII Phục Sinh

Thứ Sáu, Tuần VII Phục Sinh

Thứ Sáu, Tuần VII Phục Sinh

Thứ Năm, Tuần VII Phục Sinh

Thứ Năm, Tuần VII Phục Sinh

Thứ Tư, Tuần VII Phục Sinh

Thứ Tư, Tuần VII Phục Sinh

Thứ Ba, Tuần VII Phục Sinh

Thứ Ba, Tuần VII Phục Sinh

Bài Viết Mới

Bài Giảng Đức Cha Đaminh | Lễ Tân Niên  – Mồng Một Tết Ất Tỵ

Bài Giảng của Đức Cha Đaminh Trong Thánh Lễ Khai Mạc Tuần Tĩnh Tâm Linh Mục Giáo Phận

Giáo xứ Minh Giáo Đà Lạt Mừng Bổn Mạng: Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Giáo xứ Minh Giáo Đà Lạt Mừng Bổn Mạng: Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Giáo Xứ Tùng Nghĩa (Đức Trọng) Mừng Kính Thánh Êlisabeth Hungari, Bổn Mạng Ban Bác Ái

Giáo Xứ Tùng Nghĩa (Đức Trọng) Mừng Kính Thánh Êlisabeth Hungari, Bổn Mạng Ban Bác Ái

Suy Niệm Lời Chúa – Thứ Ba Tuần XXXIII Thường Niên.

Suy Niệm Lời Chúa – Thứ Ba Tuần XXXIII Thường Niên.

Đại Hội Lễ Sinh Vùng Lâm Đồng 2025: “Chứng Nhân Của Hy Vọng”

Đại Hội Lễ Sinh Vùng Lâm Đồng 2025: “Chứng Nhân Của Hy Vọng”

Giáo Xứ Chính Tòa Đà Lạt: Giáo Họ Các Thánh Tử Đạo Hân Hoan Mừng Bổn Mạng

Giáo Xứ Chính Tòa Đà Lạt: Giáo Họ Các Thánh Tử Đạo Hân Hoan Mừng Bổn Mạng

Tin Tức Giáo Phận

Giáo xứ Minh Giáo Đà Lạt Mừng Bổn Mạng: Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Giáo xứ Minh Giáo Đà Lạt Mừng Bổn Mạng: Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Giáo Xứ Tùng Nghĩa (Đức Trọng) Mừng Kính Thánh Êlisabeth Hungari, Bổn Mạng Ban Bác Ái

Giáo Xứ Tùng Nghĩa (Đức Trọng) Mừng Kính Thánh Êlisabeth Hungari, Bổn Mạng Ban Bác Ái

Đại Hội Lễ Sinh Vùng Lâm Đồng 2025: “Chứng Nhân Của Hy Vọng”

Đại Hội Lễ Sinh Vùng Lâm Đồng 2025: “Chứng Nhân Của Hy Vọng”

Giáo Xứ Chính Tòa Đà Lạt: Giáo Họ Các Thánh Tử Đạo Hân Hoan Mừng Bổn Mạng

Giáo Xứ Chính Tòa Đà Lạt: Giáo Họ Các Thánh Tử Đạo Hân Hoan Mừng Bổn Mạng

Giáo Lý Viên Giáo Xứ Ka Ming (Di Linh) Tuyên Hứa Huynh Trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể

Giáo Lý Viên Giáo Xứ Ka Ming (Di Linh) Tuyên Hứa Huynh Trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể

Giáo Xứ Xà Lùng (Di Linh) – Những Tông Đồ Giáo Dân Tiếp Bước Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Giáo Xứ Xà Lùng (Di Linh) – Những Tông Đồ Giáo Dân Tiếp Bước Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Giáo Phận Đà Lạt

Thông Tin Liên Hệ
VĂN PHÒNG TRUYỀN THÔNG GIÁO PHẬN ĐÀ LẠT
– Địa chỉ: 9, Trần Quốc Toản, P. Xuân Hương – Đà Lạt, Lâm Đồng, Việt Nam
                [Địa chỉ cũ: 09 Nguyễn Thái Học, Tp. Đà Lạt, Lâm Đồng, Việt Nam]
– Điện thoại: 02633.822.415
– Email: giaophandalat1960@gmail.com

  • Trang Chủ
  • Giới Thiệu
    • Tổng Quan Giáo Phận
      • Lịch Sử Giáo Phận
      • Niên Giám Giáo Phận
      • Bản Đồ Giáo Phận
      • Truyền Giáo – Bác Ái Xã Hội
    • Giám Mục Giáo Phận
      • Tiểu Sử Đức Giám Mục Đương Nhiệm
      • Bài Giảng Đức Giám Mục
      • Các Đức Giám Mục Tiền Nhiệm
    • Giáo Hạt và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Danh Sách Linh Mục
    • Đại Chủng Viện Và Dòng Tu
      • Đại Chủng Viện Minh Hoà
      • Tu Đoàn Tông Đồ ICM
      • Dòng Mến Thánh Giá Đà Lạt
      • Dòng Chứng Nhân Đức Tin
      • Đan Viện Cát Minh Têrêsa Đà Lạt
      • Đan Viện Xitô Thánh Mẫu Châu Sơn
      • Các Dòng Tu Khác
    • Giáo Hạt và Giáo Xứ
      • Giáo Hạt Đà Lạt
      • Giáo Hạt Bảo Lộc
      • Giáo Hạt Di Linh
      • Giáo Hạt Đạ Tông
      • Giáo Hạt Đơn Dương
      • Giáo Hạt Đức Trọng
      • Giáo Hạt Madaguôi
    • Giờ Lễ
  • Phụng Vụ
    • Suy Niệm Lời Chúa Hằng Ngày
    • Chư Thánh
    • Lời Nguyện Tín Hữu
    • Nghi Thức Và Kinh Nguyện
  • Mục Vụ
    • Thiếu Nhi
    • Giới Trẻ
    • Hôn Nhân – Gia Đình
    • Truyền Giáo
    • Caritas
    • Di Dân
    • Truyền Thông
    • Thánh Nhạc
    • Tham Khảo Mục Vụ
  • Tin Tức
    • Thông Báo
    • Tin Tức Giáo Phận
    • Tin Tức Giáo Hội Việt Nam
    • Tin Tức Giáo Hội Hoàn Vũ
    • Cáo Phó Và Hiệp Thông
  • Tài Liệu
    • Văn Kiện Toà Thánh
    • Văn Kiện Hội Đồng Giám Mục
    • Văn Kiện Giáo Phận
    • Kinh Thánh
    • Giáo Lý
      • Giáo Lý Dự Tòng
      • Giáo Lý Phổ Thông
      • Giáo Lý Hôn Nhân
      • Tài Liệu Khác
    • Tu Đức – Nhân Bản
    • Triết Học
      • Đông Phương
      • Tây Phương
    • Thần Học
      • Phụng Vụ – Bí Tích
      • Tín Lý
      • Luân Lý
      • Học Thuyết Xã Hội
      • Suy Tư Thần Học
    • Giáo Luật
    • Lịch Sử Giáo Hội
    • Tham Khảo
  • Media
    • Thánh Lễ
    • Bài Giảng
    • Suy Niệm Lời Chúa
    • Giới Thiệu Giáo Xứ

© Giáo Phận Đà Lạt - Ban Truyền Thông

  • Trang Chủ
  • Thông Báo
  • Tin Tức Giáo Phận
  • Báo Lỗi