BÀI ĐỌC I: Is 50, 4-7
“Tôi đã không giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn”.
(Bài ca thứ ba về Người Tôi Tớ Chúa)
Trích sách Tiên tri Isaia.
Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn.
ĐÁP CA: Tv 21, 8-9. 17-18a. 19-20. 23-24
Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con?
Xướng:
1) Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: “Hắn tin cậy Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương”. – Đáp.
2) Đứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con. – Đáp.
3) Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn tấm áo dài, thì chúng rút thăm… Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi Đấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ. – Đáp.
4) Con sẽ tường thuật danh Chúa cho các anh em, giữa nơi công hội, con sẽ ngợi khen Người. “Chư quân là người tôn sợ Chúa, xin hãy ca khen Chúa, toàn thể miêu duệ nhà Giacóp, hãy chúc tụng Người, hãy tôn sợ Người, hết thảy dòng giống Israel!” – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Pl 2, 6-11
“Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.
Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.
TIN MỪNG: Mc 14,1-14,47 (hay Mc 15,1-39)
1 Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, các thượng tế và kinh sư bàn mưu tính kế bắt Đức Giê-su để giết Người; 2 vì họ nói: “Đừng làm vào chính ngày lễ, kẻo dân chúng náo động.”
3 Lúc đó, Đức Giê-su đang ở làng Bê-ta-ni-a, tại nhà ông Si-môn, người từng mắc bệnh phong. Giữa lúc Người dùng bữa, có một người phụ nữ đến, mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam tùng nguyên chất thứ đắt tiền. Cô đập ra, đổ dầu thơm trên đầu Người.
4 Có vài người lấy làm bực tức, nói với nhau: “Phí dầu thơm như thế để làm gì? 5 Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người nghèo.” Rồi họ gắt gỏng với cô.
6 Nhưng Đức Giê-su bảo họ: “Cứ để cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa. 7 Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được! Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu!
8 Điều gì làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng. 9 Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ, thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô.”
10 Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người cho họ. 11 Nghe hắn nói, họ rất mừng và hứa cho tiền. Giu-đa liền tìm cách nộp Người sao cho tiện.
12 Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày sát tế chiên Vượt Qua, các môn đệ thưa với Đức Giê-su: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”
13 Người sai hai môn đệ đi, và dặn họ: “Các anh đi vào thành, và sẽ có một người mang vò nước đón gặp các anh. Cứ đi theo người đó. 14 Người đó vào nhà nào, các anh hãy thưa với chủ nhà: Thầy nhắn: ‘Thầy sẽ ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ ở phòng nào?’
15 Và ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng: và ở đó, các anh hãy dọn tiệc cho chúng ta.”
16 Hai môn đệ ra đi. Vào đến thành, các ông thấy mọi sự y như Người đã nói. Và các ông dọn tiệc Vượt Qua.
17 Chiều đến, Đức Giê-su và Nhóm Mười Hai cùng tới. 18 Đang khi dùng bữa, Người nói: “Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy.”
19 Các môn đệ đâm ra buồn rầu, và lần lượt hỏi Người: “Chẳng lẽ con sao?” 20 Người đáp: “Chính là một trong Nhóm Mười Hai đây, mà là người chấm chung một đĩa với Thầy.
21 Đã hẳn, Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!”
22 Cũng đang bữa ăn, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho các ông và nói: “Anh em hãy cầm lấy, đây là mình Thầy.”
23 Và Người cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các ông, và tất cả đều uống chén này. 24 Người bảo các ông: “Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra vì muôn người.
25 Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa.”
26 Hát thánh vịnh xong, Đức Giê-su và các môn đệ ra núi Ô-liu. 27 Đức Giê-su nói với các ông: “Tất cả anh em sẽ vấp ngã, vì Kinh Thánh đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và chiên sẽ tan tác.
28 Nhưng sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em.” 29 Ông Phê-rô liền thưa: “Dầu tất cả có vấp ngã đi nữa, thì con cũng nhất định là không.”
30 Đức Giê-su nói với ông: “Thầy bảo thật anh: hôm nay, nội đêm nay, gà chưa kịp gáy hai lần, thì chính anh, anh đã chối Thầy đến ba lần.” 31 Nhưng ông Phê-rô lại nói quả quyết hơn: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.” Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy.
32 Sau đó, Đức Giê-su và các môn đệ đến một thửa đất gọi là Ghết-sê-ma-ni. Người nói với các ông: “Anh em ngồi lại đây, trong khi Thầy cầu nguyện.” 33 Rồi Người đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo. Người bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến.
34 Người nói với các ông: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức.” 35 Người đi xa hơn một chút, sấp mình xuống đất mà cầu xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy, nếu có thể được.
36 Người nói: “Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn.”
37 Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ đang ngủ, liền nói với ông Phê-rô: “Si-môn, anh ngủ à? Anh không thức nổi một giờ sao? 38 Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối.”
39 Người lại đi cầu nguyện, kêu xin như lần trước. 40 Rồi Người trở lại, thấy các môn đệ vẫn ngủ, vì mắt họ nặng trĩu. Các ông chẳng biết trả lời làm sao với Người.
41 Lần thứ ba, Người trở lại và bảo các ông: “Lúc này mà còn ngủ, còn nghỉ sao? Thôi, đủ rồi. Giờ đã điểm. Này Con Người bị nộp vào tay phường tội lỗi. 42 Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới!”
43 Ngay lúc đó, khi Người còn đang nói, thì Giu-đa, một người trong Nhóm Mười Hai, xuất hiện. Cùng đi với hắn, có một đám đông mang gươm giáo gậy gộc. Họ được các thượng tế, kinh sư và kỳ mục sai đến.
44 Kẻ nộp Đức Giê-su đã cho họ một ám hiệu, hắn dặn rằng: “Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận.” 45 Vừa tới, Giu-đa tiến lại gần Người và nói: “Thưa Thầy!”, rồi hôn Người. 46 Họ liền tra tay bắt Người.
47 Nhưng một trong những kẻ đang có mặt tại đó tuốt gươm ra, chém phải tên đầy tớ của thượng tế, làm nó đứt tai.
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
CUỘC KHỔ NẠN KÉO DÀI
Ông Giô-xếp hạ xác Đức Giê-su xuống, lấy tấm vải liệm Người lại. (Mc 15,46)
Suy niệm: “Lạy Chúa, xin hãy đánh mạnh vào tận cội rễ sự ti tiện trong quả tim con… Xin ban cho con sức mạnh để con không tước đoạt của cải người nghèo cũng như không quỳ gối trước quyền lực ngạo nghễ” (R. Tagore). Hai cám dỗ của thi sĩ cũng là của mọi người, nhất là trong xã hội hôm nay. Người Ki-tô hữu được kêu mời nhận ra Đức Ki-tô đang tiếp tục hấp hối trên thánh giá nơi người đau khổ, những kẻ được Ngài yêu thương cách đặc biệt. Tựa như Giô-xếp, ta cũng cần đưa người nghèo có tên chung là “Giê-su” xuống khỏi thập giá nơi họ đang bị đóng đinh. Hình tượng những người lính bắt thăm, đánh bạc để lấy chiếc áo Đức Giê-su ngay dưới chân thập giá cũng có thể tiêu biểu cho các Ki-tô hữu hôm nay, khi ta mãi lo “cá cược” đời mình trong cuộc sống vật chất, ngay trước Khổ Nạn kéo dài của Thầy mình trong người anh em.
Mời Bạn: Hướng đến cuộc Khổ Nạn của Chúa Giê-su trong suốt Tuần Thánh này. Mời bạn chiêm ngắm tình yêu đến cùng của Ngài qua những đau khổ kinh khủng nơi thân xác (đánh đòn, mão gai, đóng đinh, treo trên thập giá…) cũng như những nỗi đau hằn sâu trong tâm hồn (bị bỏ rơi, phản bội, nhạo báng, xa cách Thiên Chúa do hậu quả tội lỗi…).
Chia sẻ: Tại sao Chúa lại sẵn sàng chịu những đau khổ khủng khiếp như vậy?
Sống Lời Chúa: Tôi sẽ sống một tuần Thánh tốt đẹp qua những hy sinh, cố gắng nỗ lực hết mình.
Cầu nguyện: Lạy Cha, ước gì thánh giá nên mẫu gương cho chúng con, là ánh sáng trong đêm tăm tối, nhờ đó, chúng con không coi khổ đau như tai hoạ hay điều vô lý, nhưng là dấu chỉ cho thấy chúng con thuộc về Cha mãi mãi.
B/ Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
GƯƠNG KHIÊM NHƯỜNG
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Lễ Lá, năm B này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã muốn cho Đấng Cứu Thế mang thân phận người phàm và chịu khổ hình thập giá, để nêu gương khiêm nhường cho thiên hạ noi theo. Xin Chúa cho chúng ta biết đón nhận bài học Người để lại trong Cuộc Thương Khó, và thông phần Vinh Quang Phục Sinh với Người.
Đức Giêsu là mẫu gương khiêm nhường thực thi thánh ý Chúa Cha, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thư gửi tín hữu Hípri đã tường thuật lại: Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới.
Đức Giêsu đã trở nên hiền lành và khiêm nhường, để nâng chúng ta lên, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Anrê Cơrêta đã nói: Người là Đấng hiền lành, đã vượt lên trên phía mặt trời lặn, tức là lên trên thân phận yếu hèn của chúng ta. Người vui mừng vì trước kia đã tỏ cho chúng ta thấy Người hiền lành như thế, nên đã tới chung sống với chúng ta, để nhờ dây thân thích với chúng ta, Người nâng chúng ta lên và đưa chúng ta đến với Người.
Đức Giêsu là Người Tôi Trung của Thiên Chúa đã khiêm nhường chấp nhận tất cả, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, ngôn sứ Isaia cho thấy: Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô cũng đã cho thấy Đức Giêsu đã đi đến cùng của mầu nhiệm tự hủy: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.
Người Tôi Trung của Thiên Chúa đã khiêm nhường chấp nhận mọi sỉ nhục, khinh chê, như trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 21, vịnh gia đã cho thấy: Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao? Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi. Thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: “Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào!” Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay cũng cho thấy sự tự khiêm tự hạ của Người: Vì chúng ta, Đức Kitô đã tự hạ, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu.
Trong bài Tin Mừng, thánh Máccô tường thuật lại Cuộc Thương Khó của Đức Kitô. Quyết định của Chúa, ai dò cho thấu. Đường lối của Người, ai theo dõi được. Tại sao Chúa lại chọn cách thức khiêm nhường, tự hủy, để biểu tả tình yêu của Người? Đây là một mầu nhiệm. Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa để vào thành thánh Giêrusalem. “Ngựa” được dùng để chiến đấu ngoài sa trường, biểu tượng cho sự mạnh mẽ, oai hùng, còn “lừa” được dùng để chỉ sự khiêm nhường, ôn nhu. Đức Giêsu đích thực là vị Vua Hòa Bình, mang bình an đến cho nhân loại. Noi gương Đức Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, chúng ta hãy lấy hết lòng khiêm nhường, trí khiêm hạ, và hoàn toàn khoét rỗng chính mình, để dọn đường: đón Đức Giêsu đi vào tận sâu thẳm tâm hồn chúng ta. Ước gì chúng ta biết cởi bỏ những chiếc áo, đính đầy những quyến luyến lệch lạc của thú vui trần thế, để mặc lấy Đức Kitô, Đấng đã chấp nhận bị lột trần trụi trên thập giá, để che đậy sự tủi hổ mà tội lỗi đã mang lại cho chúng ta. Ước gì được như thế!
C/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
TÌNH YÊU THIÊN CHÚA – TÌNH YÊU CON NGƯỜI
Thiên Chúa luôn yêu thương con người bằng một tình yêu vô cùng trung tín, thế nhưng có khi con người đáp lại bằng tình yêu bất tín bất trung.
Trong lịch sử cứu độ Thiên Chúa luôn trung tín yêu thương Israen – Dân Chúa cũng chính là Hội Thánh Công Giáo chúng ta. Dân Chúa cảm nghiệm rõ ràng trong cuộc đời mình rằng: Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, giàu nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34,6). Thiên Chúa luôn giữ lời hứa (x. Is 44,8), không bao giờ sai lời hứa (x. Ds 23,19) và luôn thực hiện lời hứa (x. Is 55,11). Cho dù biết bao lần Dân Chúa làm phản, thờ thần ngoại, thờ ngẫu tượng; đổi Chúa vinh quang lấy loài bò ăn cỏ (Tv 105,19).
Một cách tinh vi hơn, Dân Chúa ngày nay dưới muôn vàn hình thức cũng có khi phản bội Thiên Chúa khi tôn thờ vật chất, tôn thờ sắc dục, đề cao cái tôi vĩ đại của mình. Tuy nhiên, cho dù như thế nào thì Thiên Chúa vẫn trung tín yêu thương chúng ta, như thánh Phaolô quả quyết: “Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình” (2Tm 2,13).
Tình yêu trung tín đó thể hiện cụ thể nơi Đức Giêsu Kitô – Thiên Chúa làm người. Đức Giêsu đã tình nguyện hiến dâng mạng sống để cứu chuộc chúng ta. Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật Lễ Lá cho ta thấy một bên là lòng trung tín yêu thương vô bờ của Thiên Chúa, một bên là lòng dạ bất trung của con người.
Đúng như Kinh Thánh nói: “Không gì nham hiểm và bất trị như lòng người, ai dò thấu được? (Gr 17,9). “Thâm hiểm biết bao lòng dạ người đời” (Tv 63,7). Dân gian Việt Nam ta cũng diễn tả ý tưởng đó qua cách nói giàu hình ảnh:
“Sông sâu biển thẳm dễ dò
Nào ai lấy thước mà đo lòng người”.
“Sông sâu mười thước dễ đo,
con người một thước không đo nổi lòng”.
Chúa Giêsu sống giữa các môn đệ như một người tôi tớ, luôn yêu thương dạy dỗ các ông, thế mà Giuđa bán Chúa với giá ba mươi đồng bạc, Phêrô chối Chúa, các môn đệ khác chạy xa Chúa…
Đám đông dân chúng đi theo Chúa được nghe Tin Mừng, được ăn no nê, được Chúa chữa cho khỏi bệnh thể xác, tâm hồn; mới hôm trước còn tung hô Chúa là vua, mà giờ đây bội phản la hét đóng đinh nó vào thập giá.
Về Giới lãnh đạo Do Thái: các Thượng tế, Kinh sư và Pharisêu dầu biết Chúa là Đấng đầy uy quyền trong lời nói và việc làm (Mc 1,27), nhưng vì lòng ghen tị, vì sợ mất lợi nhuận vật chất trong Đền Thờ, vì bị lật tẩy thói đạo đức giả… mà họ ác tâm vu khống, bắt nộp Chúa, ép Philatô phải kết án tử (Ga 19,12), họ xúi giục dân xin tha Baraba và đòi giết Chúa Giêsu (Mc 14,11-14).
Còn Philatô giả ngơ, hỏi Chúa rằng: sự thật là gì? Dù vẫn biết sự thật Chúa Giêsu vô tội; cho nên, ông muốn tha, tìm cách tha Chúa Giêsu, nhưng lại không dám sống chí khí của bậc quân tử mà trở thành tiểu nhân, vì mối lo âu địa vị, vì không muốn gặp rắc rối cho bản thân, vì sợ dân Do thái tố cáo lên Xêda mà ông đã đồng lõa giết Người vô tội (Ga 19,16).
Chúa Giêsu đã bị phản bội, và chịu một bản án tử bất công dù Người chẳng làm gì nên tội. Tuy nhiên, tất cả sự dữ nơi trần gian có toa rập lại cũng chẳng thể làm hại được Người nếu giờ của Người chưa đến, hay nói đúng ra chính Chúa Giêsu tự hiến thân chịu chết để làm chứng cho chân lý Người rao giảng, nhất là để biểu lộ tình yêu tột cùng đối với nhân loại: “Thiên Chúa đã đổ lên đầu Người tất cả tội lỗi chúng ta. Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (Is 53,6-7). Điều ấy càng củng cố cho xác tín của chúng ta: Vì chúng ta Chúa Kitô đã sống vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự chính, vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu vượt trên ngàn danh hiệu.
Tham dự vào cuộc thương khó hồng phúc của Chúa Giêsu từ đầu Mùa Chay và nhất là những ngày cao điểm của Tuần Thánh này, xin cho chúng ta biết mang lấy tâm tình của Chúa Giêsu tâm tình tín thác, tâm tình yêu thương, tự hiến dâng mạng sống vì tha nhân. Đồng thời, chúng ta biết thống hối về các lầm lỗi của mình theo lời thánh Phanxicô nhắn nhủ chúng ta: “Không phải quỷ dữ đóng đinh Người trên thập giá. Mà là chính bạn cùng với chúng đã đóng đinh Người trên thập giá; và còn đang đóng đinh Người nữa khi bạn thích thú trong thói xấu và tội lỗi”.
D/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Đức Kitô được gọi là Tôi Tớ của Thiên Chúa vì Ngài đã mặc lấy thân xác của loài người trong thân phận người nô lệ để sống với loài người, hầu thi hành sứ mạng cứu thế mà Chúa Cha đã giao phó cho. Cuộc đời của Ngài là cuộc đời vâng phục hoàn toàn, như lời thánh Tông đồ đã nói: “Chúa Kitô lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 8).
1/Đức Kitô, người Tôi Tớ
Đức Giêsu lấy thân phận người tôi tớ làm thân phận của mình; là Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng (Mt 11, 29), loan báo ơn cứu độ cho người nghèo (x. Lc 4, 18t); tuy là Chúa và là Thầy (Ga 13, 12-15), Người sống giữa các môn đệ như “kẻ phục vụ” (Lc 22, 27); và Người đi đến tận cùng các đòi hỏi của tình yêu thúc đẩy Người phục vụ như thế (Ga 13, 1; 15, 13) bằng cách hiến dâng cả mạng sống mình để cứu chuộc nhiều tội nhân (Mc 10, 43tt; Mt 20, 26tt). Bởi đó Người đã bị đối xử như một tội phạm (Lc 22, 37), rồi chết trên thập giá (Mc 14, 24) trong khi biết rằng mình sẽ sống lại theo lời Thánh kinh nói về Con Người (Mc 8, 31; Lc 24, 44).
Lời rao giảng của các tông đồ áp dụng cho Đức Giêsu tước hiệu Người Tôi Tớ để loan báo mầu nhiệm sự chết của Người (Cv 3, 13t; 4, 27t), là nguồn mạch phúc lành và ánh sáng cho chư dân (Cv 3, 25t; 26, 23). Là Con Chiên bị sát tế cách bất công như người Tôi Tớ (Cv 8, 32t), Đức Giêsu đã cứu chuộc các chiên lạc của Người.
Trong một bài thánh ca, thánh Phaolô đã hùng hồn tóm tắt mầu nhiệm Đức Kitô và đức ái của Người: thánh ca công bố rằng Đức Giêsu đã vào trong vinh quang bằng cách mặc lấy thân phận Người Tôi Tớ và chết trên thập giá để vâng lời Thiên Chúa Cha Người (Pl 2, 5-11). Vậy lời tiên tri nói về Người Tôi Tớ loan báo lễ hy tế cứu chuộc của Con Thiên Chúa làm người. Bởi đó, tên của Người Tôi Tớ thánh thiện của Thiên Chúa, Đức Giêsu chịu đóng đinh và sống lại, là nguồn mạch độc nhất của ơn cứu rỗi (Cv 4, 10tt).
2/Đức Kitô, người Tôi Tớ vâng phục tự nguyện.
a.Giáo lý của Ngài
Việc đầu tiên chứng tỏ Đức Giêsu đã tự nguyện vâng phục, đó là Người đã tự nguyện mặc lấy thân phận tôi tớ, mặc dầu Người vốn có hình thể Thiên Chúa (Pl 2, 5-11). Người đã tự huỷ mình đi để thi hành công cuộc cứu chuộc loài người. Trong đời sống thi hành chức vụ đó, Đức Kitô luôn nhắc đi nhắc lại cho chúng ta thấy Người đến không phải làm một việc gì khác ngoài việc đến để làm công việc do Cha Người đã ủy thác cho (x. Ga 4, 38).
Thánh Phaolô cho biết Cựu ước chỉ là hình bóng của Tân ước, cho nên của lễ Cựu ước cũng thua kém của lễ Tân ước. Ngày nay, Chúa không thích lễ vật sinh tế mà thích tấm lòng của người dâng lễ vật. Thư gửi cho tín hữu Do thái viết: “Bởi đó lúc vào trần gian Ngài nói: Hy sinh cùng lễ vật Người đã chẳng màng, nhưng Người đã nắn nên thân xác cho con. Các lễ toàn thiêu cùng tạ tội, Người đã chẳng đoái. Bấy giờ con nói: Này con đến – trong cuốn sách đã nói về con – để thi hành ý muốn Người, lạy Thiên Chúa” (Dt 10, 5-7). Lần kia, các tông đồ vào thành mua đồ ăn về, thấy Chúa Giêsu đang ngồi nghỉ mệt bên giếng Giacóp. Các ông bày đồ ăn ra trước mặt Chúa, các ông mời Ngài: “Thưa Thầy, xin Thầy dùng bữa” (Ga 4, 31). Chúa Giêsu không để ý gì đến thức ăn các môn đệ dọn sẵn. Đôi mắt Ngài còn chìm đắm trong cõi vô hình. Cảnh vật chung quanh như xa lạ với Ngài. Cuối cùng Ngài trả lời các môn đệ: “Thầy đã có của ăn rồi mà các con không biết” (Ga 4, 32). Rồi khi thấy các môn đệ đưa mắt hỏi nhau về việc Ngài đã có của ăn, Ngài liền thêm: “Của ăn Thầy dùng là chu toàn ý Chúa Cha và thực hiện công việc của Ngài” (Ga 4, 34). Nhiều lần trong đời Ngài, Ngài đã lặp lại và minh chứng hùng hồn điều đó: “Ta từ trời xuống không phải để làm theo ý Ta, nhưng theo ý Đấng đã sai Ta” (Ga 4, 38).
Ý tưởng về vâng phục đó còn được diễn tả một cách rõ ràng trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt. Khi Đức Giêsu bắt đầu cuộc thụ nạn, Ngài đã vào trong Vườn Cây Dầu để cầu nguyện, hầu xin sức mạnh để thực hiện một công việc hết sức khó khăn theo sức loài người. Đức Giêsu có những ý nghĩ và tâm tình như chúng ta: Người cũng cảm thấy buồn rầu lo sợ trước một cái chết cực kỳ dã man và ghê sợ nhất trong lịch sử loài người. Nhưng với ý chí sắt đá, Ngài đã thắng được tính yếu đuối nhút nhát của con người, Ngài đã dám cầu nguyện cùng Cha Ngài rằng: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho chén này qua đi khỏi con! Song không phải ý Con, mà là ý Cha” (Mt 26, 39; Mc 14, 36; Lc 22, 42; Ga 12, 27).
b.Đời sống của Ngài
Đức Giêsu đã tỏ ra lệ thuộc vào Cha trên trời một cách cụ thể trong khi vâng phục các tạo vật, theo phẩm trật tự nhiên, có thể quyền bính phần nào đối với Người. Thế nên, trong 30 năm Ngài sống hoàn toàn vâng phục Mẹ Maria và thánh Giuse, Người nhìn nhận uy quyền của Đức Chúa Cha, quyền bính của thánh Giuse và Mẹ Maria. Trong những lời ngắn ngủi, Phúc âm tóm tắt cả một quãng đời riêng tư lâu dài của Đấng Cứu Thế: “Người đã vâng phục ông bà” (Lc 2, 51). Sau đó trong đời sống công khai, nhất là trong cuộc khổ nạn, Người đã luôn nêu gương vâng phục quyền bính thiết định, tôn giáo cũng như dân sự, tuân phục những thẩm phán cũng như những đao phủ, theo lời thánh Phaolô: “Người đã vâng phục cho đến chết, và chết trên thập giá” (Pl 2, 8). Xuống thế vì vâng lời, Người đã ôm ấp cái chết, tại vườn Cây dầu Ngài đã thực hiện lý tưởng ấy (x. Lc 22, 42).
c.Vâng phục tự nguyện.
Công cuộc nhập thể và cứu chuộc được thực hiện nơi Chúa Giêsu hoàn toàn do Người chấp nhận, không có một lý do nào khác ép buộc Ngài. Mọi công việc Người làm ở trần thế này không có một lý do nào khác ép buộc Người, chỉ có tình yêu Người đối với ta đã thúc đẩy.
Trong một bài thánh ca, thánh Phêrô đã mô tả như sau: “Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không phạm tội chi, chẳng ai thấy Người mở miệng nói lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng có ngăm đe, nhưng đã tự phó thác cho Đấng phân xử công bình. Tội lỗi chúng ta, Người mang vào thân mà đưa lên thập giá, hầu đối với tội lỗi, chúng ta như đã chết rồi để từ nay sống đời công chính. Nhờ mang thương tích, mà anh em được chữa lành”(1Pr 2, 21-24).
3/Trong hoàn cảnh thực tế của mỗi người.
Mỗi người có một thánh giá riêng hợp với sức mình, vì Chúa không bắt ai phải chịu thử thách quá sức chịu đựng. Chính Chúa đã trả lời cho thánh Phaolô khi ngài bị thử thách nặng nề: Sufficit tibi gratia mea: ơn của Ta đã đủ cho con (2Cr 12, 9). Những thánh giá đó có thể là bệnh tật, làm ăn thất bại, hoàn cảnh gia đình, bởi những người chung quanh, những biến cố xảy ra ngoài ý muốn…
Nhưng dù sao, cũng cần phải có thánh giá, phải có hy sinh. Tác giả thư Do thái đã quả quyết: “Không có đổ máu, không có phần rỗi” (Dt 9, 22).
Lời sách Khôn ngoan cũng dạy ta như vậy: “Con ơi, nếu con muốn được phụng sự Chúa, con hãy sẵn lòng chịu thử thách. Con hãy tạo lấy một tâm hồn ngay thẳng, võ trang bằng lòng can đảm, lúc gặp nghịch cảnh đừng nản chí. Con cứ bám chặt lấy Người, đừng rời xa, mới mong được cất nhắc lên trong ngày sau hết. Có xảy đến sự gì, con cứ đón nhận đi và trong các cơn thăng trầm của thân phận con, con hãy tỏ ra kiên nhẫn, vì vàng cần phải thử trong lửa và người được chọn cần được thử trong lò lửa nhục nhã” (Kn 2, 1-5).
Thử thách để tẩy luyện linh hồn và làm cho linh hồn được vững vàng trong đường nhân đức. Người làm vườn mà vì thương hại cây hồng không muốn bạo tay cắt những cành sâu đi, thì không phải là người làm vườn khéo: cây hồng được “nương chiều” như thế cũng không thể nở hoa được… Người không muốn hy sinh, không muốn quên mình cũng không bao giờ có ý chí vững chắc được.