Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.
Bài đọc 1: Cv 10,34a.37-43
Chúng tôi đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại.
Bài trích sách Công vụ Tông Đồ.
34a Bấy giờ, tại nhà ông Co-nê-li-ô ở Xê-da-rê, ông Phê-rô lên tiếng nói: 37 “Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giu-đê, bắt đầu từ miền Ga-li-lê, sau phép rửa mà ông Gio-an rao giảng. 38 Quý vị biết rõ: Đức Giê-su xuất thân từ Na-da-rét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người. 39 Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giê-ru-sa-lem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. 40 Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, 41 không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại. 42 Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. 43 Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội.”
Đáp ca: Tv 117,1-2.16ab và 17.22-23 (Đ. c.24)
Đ.Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ.
1Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Ít-ra-en hãy nói lên rằng:
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
Đ.Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ.
16abTay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao.
Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống,
để loan báo những công việc Chúa làm.
Đ.Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ.
22Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ
lại trở nên đá tảng góc tường.
Đó chính là công trình của Chúa,
công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.
Đ.Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ.
Bài đọc 2: Cl 3,1-4
Anh em hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự.
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Cô-lô-xê.
1 Thưa anh em, anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. 2 Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới. 3 Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Ki-tô nơi Thiên Chúa. 4 Khi Đức Ki-tô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang.
Ca tiếp liên
Nào tín hữu ca mừng hoan hỷ
Đức Ki-tô chiên lễ Vượt Qua
Chiên Con máu đổ chan hoà
cứu bầy chiên lạc chúng ta về đoàn.
Đức Ki-tô hoàn toàn vô tội
đã đứng ra môi giới giao hoà
tội nhân cùng với Chúa Cha
từ đây sum họp một nhà Cha con.
Sinh mệnh cùng tử vong ác chiến
cuộc giao tranh khai diễn diệu kỳ
Chúa sự sống đã chết đi
giờ đây hằng sống trị vì oai linh.
Ma-ri-a hỡi, xin thuật lại
trên đường đi đã thấy gì cô ?
Thấy mồ trống Đức Ki-tô
phục sinh vinh hiển thiên thu khải hoàn.
Thấy thiên sứ chứng nhân hiển hiện
y phục và khăn liệm xếp rời
Giê-su, hy vọng của tôi
sẽ đón các ngài tại xứ Ga-lin.
Chúng tôi vững niềm tin sắt đá
Đức Ki-tô thật đã phục sinh.
Tâu Vua chiến thắng hiển vinh
đoàn con xin Chúa dủ tình xót thương.
TIN MỪNG: Ga 20, 1-9
1 Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. 2 Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.” 3 Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. 4 Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. 5 Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào.
6 Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, 7 và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. 8 Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. 9 Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
TÔI ĐÃ THẤY CHÚA PHỤC SINH
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. (Ga 20,1)
Suy niệm: Nhiều người thắc mắc: Tại sao Chúa Ki-tô không thể hiện việc phục sinh một cách tỏ tường, rầm rộ để mọi người dù muốn dù không đều khẩu phục tâm phục, xoá tan mọi thuyết âm mưu? Trái lại, mọi sự diễn ra thật êm ả, hiện trường của sự kiện sống lại chỉ là một ngôi mộ trống: tảng đá lấp cửa mộ đã lăn ra một bên, bên trong mộ tấm khăn liệm với những băng vải được xếp lại gọn gàng. Thế nhưng sự hoang mang ban đầu đã sớm trở thành niềm xác tín. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la mới đầu còn hoảng hốt báo tin xác Chúa đã biến mất, nhưng rồi bà đã trở lại, mừng rỡ khẳng định: “Tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,18). Còn “người môn đệ được Chúa thương mến” chứng kiến ngôi mộ trống đã điềm đạm cho biết: “Ông đã thấy và đã tin” (Ga 20,8).
Mời Bạn: Niềm tin Đức Ki-tô phục sinh, ngay từ đầu đã dựa trên những chứng từ vững chắc. 1/ Bao lâu chưa chứng minh được ai đã “lấy trộm xác Chúa” và động cơ hành động là gì thì sự kiện “mộ trống” vẫn là chứng cứ đầu tiên rằng Chúa đã sống lại. 2/ Chứng từ quan trọng và mạnh mẽ nhất đến từ những người môn đệ vốn “nhát sợ, cứng lòng tin” (x. Mt 8,26), đã từng trốn chạy, chối Thầy, nay lại mạnh mẽ tuyên bố: “Chúng tôi đã thấy Chúa, chúng tôi làm chứng” (x. Cv 2,32). Bạn có suy gẫm về những chứng từ này để rồi chính bạn cũng sẽ làm chứng không?
Sống Lời Chúa: Bạn nghiền ngẫm về lời chứng của các tông đồ và quyết tâm làm chứng cho Chúa bằng cả đời sống mình.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su phục sinh, con xin thưa với Chúa như Tô-ma đã thưa: Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con. Amen.
B/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT
Khi đọc các bài báo về những vụ án hình sự chúng ta nhận thấy: để có thể tuyên án cho một ai đó có tội hay vô tội, người ta căn cứ vào nhân chứng và vật chứng. Một cách tương tự, Tin Mừng hôm nay trình bày sự kiện Chúa Kitô phục sinh với các nhân chứng là Maria Mácđala, Phêrô, và Người Môn Đệ được Chúa yêu… Bên cạnh các nhân chứng là những vật chứng: tảng đá lấp cửa mồ đã lăng ra một bên, xác Chúa Giêsu không còn trong mồ, những băng vải vẫn còn để ở đó cùng với khăn che đầu Chúa, khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng được cuộn lại cẩn thận, xếp riêng ra một cách gọn gàng. Theo cách tường thuật này, chúng ta có cảm nhận Chúa Giêsu vừa trải qua một giấc ngủ, và Ngài thức dậy, xếp chăn gối gọn gàng trước khi bước ra khỏi mồ. Điều đó chứng tỏ, chắc chắn Chúa Kitô đã phục sinh từ trong cõi chết. Đây không phải là một vụ lấy cắp xác Chúa Giêsu vì khi ăn trộm người ta phải hành động vội vàng, chớp nhoáng; chẳng có kẻ trộm nào “có tâm” đến độ cẩn thận gấp xếp ngay ngắn đồ dùng của nạn nhân.
Maria Mácđala là nhân chứng đầu tiên thấy ngôi mộ trống, bà ra mộ Chúa ngay từ “sáng sớm khi trời còn tối mịt”. Có lẽ vì trời tối, nên bà chưa nhận thấy sự gọn gàng bên trong mộ Chúa. Cũng có khi do cảm xúc tự nhiên vì yêu mến Thầy, nên cứ nghĩ xác Thầy còn ở đấy, để bà ra viếng xác và xức thuốc thơm như là muối níu kéo sự hiện diện của Thầy. Đây là tình cảm tự nhiên của con người. Cũng như chúng ta khi có người thân yêu qua đời, thì rất thương nhớ quây quần bên thi hài của người quá cố, rồi khi đã an táng thì năng thăm viếng phần mộ… Thế nhưng giờ đây, xác Thầy không còn trong mộ, nên Mácđala thảng thốt, hớt ha hớt hả, vội vã chạy về báo tin cho các môn đệ: “Người ta đã lấy mất Chúa…”
Thánh Gioan rất tinh tế khi tường thuật từng chi tiết của sự việc: “Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần. Bà Maria Mácđala ra mộ từ sáng sớm lúc trời còn tối mị”. Chỉ trong một câu vắn gọn mà chúng ta thấy có hai hình ảnh đối lập nhau: Sáng – Tối. Sáng sớm ngày thứ nhất, nghe vang vọng lại công trình tạo dựng mà Thiên Chúa đã thực hiện. Sáng sớm ngày thứ nhất- ngày Chúa Kitô phục sinh, thực sự là cuộc sáng tạo mới. Do chính Chúa Kitô hoàn thành qua cái chết, đem ơn giải thoát viên mãn cho con người. Ánh sáng thuộc về Chúa Kitô, ánh sáng ấy đang chiếu dọi và đẩy lui bóng tối mị mù trong lòng các môn đệ, bóng tối của sự nghi nan, bóng tối của sự hoang mang, sợ hãi đang bao trùm. Nhưng ngày hôm nay, ngày thứ nhất trong tuần, ngày Chúa Kitô khải hoàn. Các môn đệ không còn lo âu sợ hãi nữa, mà lòng tràn đầy hân hoan, các ngài can đảm làm nhân chứng loan Tin Mừng Chúa Kitô phục sinh đến tận cùng thế giới.
Cũng như Maria Mácđala, như Phêrô, như Gioan, như các môn đệ xưa, chúng ta là môn đệ của Chúa Kitô giữa thế giới hôm nay. Là môn đệ của Chúa chắc chắn chúng ta sẽ đối diện với những gian nan thử thách, những tăm tối của khổ đau, hiểu lầm, bách hại, chúng ta kêu Chúa nhưng dường như ngài im lăng. Lúc đó xin cho chúng ta biết nhớ lại biết bao ân huệ chúa đã ban để tin rằng Ngài đang đồng hành cùng vác thánh giá với chúng ta, Chúa đang ở bên ta qua Mình Máu Thánh, qua Lời Chúa, Chúa hiện diện trong ta qua từng hơi thở, trong không khí, nước, ánh sáng chúng ta hưởng dùng hàng ngày.
Xin cho niềm vui Phục sinh và ơn thánh Chúa ban hằng ngày, luôn triển nở đơm hoa thơm trái lành cho chúng ta và mọi người, để từ đó cả cuộc đời chúng ta trở nên lời cảm tạ tri ân Chúa và can đảm làm nhân chứng loan báo tình yêu và ơn cứu độ của Chúa giữa thế giới hôm nay. Amen
C/ Lm. Inhaxiô Hồ Thông (Gp. Nha Trang)
CHÚA NHẬT CHÚA PHỤC SINH
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật Chúa Phục Sinh đặt trọng tâm vào biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô, vì thế bỏ qua Bài Đọc Cựu Ước quen thuộc để nhường chỗ cho Tân Ước. Sau khi Đức Giê-su đã hoàn tất Kinh Thánh, Giáo Hội không còn lý do gì để mà quan tâm đến các bản văn tiên báo nữa. Khởi đi từ lễ Phục Sinh đến lễ Ngũ Tuần, Bài Đọc I được trích từ sách Công Vụ Tông Đồ như truyền thống xa xưa lên đến thể kỷ thứ tư.
Cv 10: 34, 37-43
Bài Đọc I nhắc cho chúng ta nhớ rằng niềm tin của chúng ta vào Đức Ki-tô Phục Sinh dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Chính lời chứng của thánh Phê-rô, vị lãnh đạo Giáo Hội, được nhấn mạnh trong đoạn văn sách Công Vụ mà chúng ta đọc hôm nay.
Cl 3: 1-4
Bài Đọc II, trích từ thư thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-lô-xê, mời gọi chúng ta suy niệm mầu nhiệm Vượt Qua, mở ra cho chúng ta những chiều kích thần học về biến cố Phục Sinh.
Ga 20: 1-9
Cuối cùng, Tin Mừng Gioan tường thuật cho chúng ta một câu chuyện sống động nhất và chính xác nhất về việc khám phá ngôi mộ trống, khởi đầu niềm tin của các Tông Đồ vào biến cố Phục Sinh.
BÀI ĐỌC I (Cv 10: 34, 37-43)
Sách Công vụ được trình bày như phần tiếp theo Tin Mừng thứ ba: cùng một tác giả: thánh Lu-ca, cùng một người nhận: ông Thê-ô-phi-lô.
1.Mối bận tâm của thánh Lu-ca:
Thánh Lu-ca bận tâm đến tính lịch sử: nghiên cứu cho đến ngọn nguồn những gì mình viết ra. Trong Tin Mừng của mình, thánh ký quan tâm đến cuộc đời thơ ấu của Đức Giê-su. Trong sách Công Vụ của mình, tác giả phác họa lại những bước khởi đầu của Giáo Hội. Trong phần thứ nhất của sách Công vụ, thánh Lu-ca nêu bật nhân cách của thánh Phê-rô, trong phần thứ hai, dung mạo của thánh Phao-lô.
2.Cuộc thăm viếng mục vụ của thánh Phê-rô:
Nhiều lần thánh ký nhấn mạnh các Tông Đồ làm chứng về biến cố Phục Sinh. Lời chứng của thánh Phê-rô tại tư gia của ông Co-nê-li-ô, viên bách quản Rô-ma, cung cấp một trong những ví dụ như vậy. Đó là lý do Giáo Hội chọn bài đọc nầy vào Chúa Nhật Phục Sinh.
Vị lãnh tụ Giáo Hội đang thực hiện một cuộc “thăm viếng mục vụ”. Sau cuộc bách hại đã giáng xuống trên cộng đoàn Ki-tô hữu non trẻ vào năm 36 (thời gian thánh Tê-pha-nô tử vì đạo), thời kỳ yên tĩnh trở lại. Thánh Phê-rô lợi dụng cơ hội nầy để thăm viếng những Giáo Đoàn vừa mới được thiết lập. Sách Công vụ nói với chúng ta: “Bấy giờ ông Phê-rô rảo khắp nơi” (Cv 9: 32). Chính như vậy mà vị Tông Đồ đến miền duyên hãi, miền mà trước đây thầy phó tế Phi-lip-phê đã đem Tin Mừng đến.
3.Cuộc trở lại của viên bách quản ngoại giáo:
Trong khi thánh Phê-rô có mặt ở Gia-phô, một viên bách quản Rô-ma, đồn trú ở Xê-da-rê Duyên Hải (cách Gia-phô khoảng 50 cây số), sai người mời thánh nhân đến tư gia của ông.
Viên bách quản Co-nê-li-ô là một cảm tình viên Do thái giáo, thuộc những người được gọi là “những kẻ kính sợ Chúa”, họ là lương dân, nhưng tôn kính Thiên Chúa Ít-ra-en, tuy nhiên, họ không tuân giữ luật Mô-sê và không chịu phép cắt bì. Ông là một người đạo hạnh và rộng tay bố thí như sách Công vụ nói với chúng ta.
Thánh Phê-rô đến tại nhà ông. Đây là lần đầu tiên thánh nhân đem sứ điệp Tin Mừng đến cho một lương dân và toàn thể thân bằng quyến thuộc của ông, một kinh nghiệm làm đảo lộn quan niệm trước đây của thánh nhân: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiện vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận”.
4.Diễn từ của thánh Phê-rô:
Bài diễn từ của thánh Phê-rô là một bản tóm tắt Tin Mừng, nhưng không có cùng những điểm nhấn với những bài diễn từ mà thánh nhân đã công bố ở Giê-ru-sa-lem, vào lúc đó thánh nhân minh chứng cho những người Do thái rằng Đức Giê-su đã thực hiện những lời hứa Kinh Thánh và Ngài là Đấng Mê-si-a.
Ở Xê-da-rê, vào lúc này, ngỏ lời với cử tọa lương dân, thánh Phê-rô nhấn mạnh đến phẩm chất nhân chứng của mình: thánh nhân và các Tông Đồ khác đã chứng kiến những việc làm của Đức Giê-su Na-da-rét, cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài, nhất là biến cố Phục Sinh của Ngài. Thánh Phê-rô là một trong những chứng nhân Thiên Chúa đã chọn từ trước để sống trong mối thân tình với Đức Kitô: “cùng ăn cùng uống với Ngài”. Đấng Phục Sinh đã trao cho họ một sứ mạng, đó là làm chứng rằng Thiên Chúa đã tôn phong Ngài làm Thẩm Phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Hướng đến những người sắp gia nhập Giáo Hội và lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, thánh Phê-rô tinh tế thêm vào ngay sau đó rằng vị Thẩm Phán nầy cũng là Đấng từ bi, nhân hậu và hay tha thứ. Thánh nhân trích dẫn Kinh Thánh để nhấn mạnh rằng các ngôn sứ đều đã loan báo như vậy: tha thứ tội lỗi cho những ai tin vào Ngài.
Giáo Hội xây dựng niềm tin của mình vào biến cố Phục Sinh dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Giáo Hội xem lời chứng nầy có tính quyết định đến độ không giờ cảm thấy cần phải đặt biến cố Phục Sinh thành một tín điều. Tính minh nhiên của sự kiện đòi buộc. Nền tảng thật vững chắc: những người “đã thấy” và “đã sống” với Đức Ki-tô Phục Sinh làm chứng.
BÀI ĐỌC II (Cl 3: 1-4)
Thánh Phao-lô viết thư gởi tín hữu Cô-lô-xê này trong khi thánh nhân đang bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-62. Trong đoạn trích thư này, thánh nhân đưa ra cho chúng ta chiều kích thần học về sự Phục Sinh một cách sâu xa.
1.Luận chứng của thánh Phao-lô:
Thánh Phao-lô là nhân chứng của Đức Ki-tô Phục Sinh. Đấng Phục Sinh đã nắm bắt thánh nhân trên đường Đa-mát, đã tỏ mình ra cho thánh nhân trong ánh sáng chói lòa, đã giáo huấn thánh nhân và trao phó sứ mạng cho thánh nhân.
Luận chứng của thánh Phao-lô xem ra có vẻ mâu thuẫn: trước hết, thánh nhân nói: “Anh em đã được phục sinh cùng với Đức Ki-tô”, tiếp đó: “Anh em đã chết cùng với Đức Ki-tô”. Thật ra, đây là một trong những phương thức của thánh Phao-lô: trước tiên thánh nhân đề cao thực tại tinh thần, từ đó cho thấy những hậu quả “luân lý” đòi buộc cách ăn nếp ở của chúng ta; tiếp đến những hậu quả “hữu thể”, tức là những hậu quả ghi dấu ấn trên bản thân của chúng ta.
2.Người Ki-tô hữu:
Như trường hợp ở đây. Thánh Phao-lô định nghĩa người Ki-tô hữu là người, nhờ bí tích Thánh Tẩy và cuộc sống bí tích, dự phần vào sự Phục Sinh của Đức Kitô, vì thế họ được sống lại rồi. Trong thư gởi cho các tín hữu Ê-phê-xô, thánh nhân diễn tả thực tại nầy còn bạo dạn hơn nữa, khi thánh nhân dùng thì quá khứ: “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Giê-su Ki-tô trên cõi trời” (Ep 2: 6).
Vì thế, từ hoàn cảnh tinh thần này của người Ki-tô hữu, thánh Phao-lô nhấn mạnh trước tiên những hậu quả luân lý: cần thiết phải nghĩ đến những gì thuộc thiên giới. Tiếp đó, thánh nhân nói đến những hậu quả hữu thể: được sống lại rồi, tức là đã chết cho tội lỗi, đó là được biến đổi tận bên trong. Bên ngoài không có gì thay đổi, nhưng một năng lực thần linh ẩn kín ở bên trong người Ki-tô hữu, mà ánh sáng rực rỡ của nó sẽ chỉ được tỏ rạng một cách viên mãn vào ngày chung cuộc. Đây là ý tưởng rất thân thiết với thánh Phao-lô: sống theo Đức Ki-tô bảo đảm vinh quang tương lai của chúng ta; như vậy, ngay ở đời này, chúng ta chắc chắn có được những bảo chứng về vinh quang của chúng ta rồi.
TIN MỪNG (Ga 20: 1-9)
Niềm xác tín của các Tông Đồ vào sự Phục Sinh của Đức Ki-tô dựa trên hai kinh nghiệm; có thể nói là chúng hình thành nên “hai giai đoạn”. Trước tiên, việc khám phá “ngôi mộ trống” là mặc khải gây choáng váng đầu tiên. Phải nói là kinh nghiệm về sự “trống rỗng”, kinh nghiệm này đã mở đôi mắt của họ và khai lòng mở trí họ để hiểu Kinh Thánh. Tiếp đó, ngay từ cùng ngày hôm đó, “những lần hiện ra” của Đức Giê-su mang đến bằng chứng khả giác về một con người bằng xương bằng thịt thực sự đang sống; tuy nhiên, các môn đệ không thể nào thấu hiểu mầu nhiệm tôn vinh của Ngài. Nhưng thân xác của Đấng Phục Sinh rõ ràng là thân xác đã biến mất khỏi ngôi mộ, thân xác mang lấy những dấu tử nạn của Ngài, vì thế, không thể nào là một bóng ma, không là một hình hài giả tạo. Hai kinh nghiệm tăng cường cho nhau, bổ túc cho nhau. Các Tông Đồ làm chứng với niềm xác tín tuyệt đối của mình cho đến phải hy sinh tính mạng của mình.
1.Ngày thứ nhất trong tuần:
Từ cuộc khám phá ngôi mộ trống, Tin Mừng Gioan tường thuật cho chúng ta một câu chuyện sống động, chính xác là câu chuyện của những nhân chứng mắt thấy tai nghe. Như luôn luôn trong Tin Mừng Gioan, những chi tiết vén mở những ý nghĩa thâm sâu.
2.Bà Ma-ri-a Mác-đa-la:
Ngày sa-bát đã chấm dứt vào buổi chiều hôm qua, vì thế, ngày thứ nhất trong tuần đã bắt đầu, ngày thứ nhất nầy sẽ trở thành ngày Chúa Nhật của chúng ta, “Ngày của Chúa”, nói chính xác đó là ngày Chúa Phục Sinh.
Thánh Gioan nói: “Sáng sớm, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ”. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la là một trong những người phụ nữ đã lấy của cải của mình mà giúp Đức Giê-su và các môn đệ Ngài trong những cuộc hành trình truyền giáo khắp miền Ga-li-lê của Ngài (Lc 8: 1-3), bà cùng với Đức Trinh Nữ đã can đảm đứng bên thập giá vào những giây phút sau cùng của Đức Giê-su (Ga 19: 25) và đã đế ý nhìn ngôi mộ và xem thi thể Ngài được đặt như thế nào (Lc 23: 55). Bây giờ, sau ngày hưu lễ, bà đi viếng mộ. Tin Mừng nói với chúng ta rằng bà ra đi đến mộ sáng sớm “lúc trời còn tối”: lòng mến và niềm tôn kính của bà đã thôi thúc bà ra đi không một chút trì hoãn để được ở bên cạnh thi thể của Chúa mà ngày sa-bát đã ngăn cản bà.
Thánh Gioan chỉ nêu tên một mình bà Ma-ri-a Mác-đa-la, tuy nhiên, tự bản văn, xem ra còn có các bà khác cùng đồng hành với người phụ nữ nầy, vì bà Ma-ri-a Mác-đa-la nói : “Chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Quả thật, thánh Mát-thêu kể ra hai người: bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà Ma-ri-a khác (Mt 28 : 1), còn thánh Mác-cô kể ra ba: bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a, mẹ của ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê (Mc 16 : 1), theo thánh Lu-ca, còn có nhiều hơn nữa (Lc 24 : 1); nhưng bà Ma-ri-a Mác-đa-la luôn luôn được trưng dẫn đầu tiên.
Tại sao bà Ma-ri-a Mác-đa-la được nêu tên duy nhất? Chắc chắn vì trong số các bà trung tín, kỷ niệm của người phụ nữ nầy đặc biệt nhất (thánh Gioan viết Tin Mừng của mình với một hoài niệm nào đó), và vì chính bà là người đầu tiên được diễm phúc gặp gỡ Đấng Phục Sinh trong số những lần Đấng Phục Sinh hiện ra được kể trong các sách Tin Mừng. Hơn nữa, bà là người được Đấng Phục Sinh sai đi loan báo Tin Mừng cho các môn đệ Ngài (Ga 20 : 17-18). Vì thế, truyền thống Giáo Hội tôn kính bà khi gọi bà là “Tông Đồ của các Tông Đồ”, nghĩa là “Tông Đồ tuyệt hảo nhất”.
3.Thánh Phê-rô và thánh Gioan :
Khi bà Ma-ri-a Mác-đa-la báo tin cho hai ông Phê-rô và Gioan, lúc đó hai ông có thể cùng cư ngụ trong một nhà. Cả hai ông thường được nêu tên cùng nhau và hoạt động cùng nhau (Cv 3 : 1-11 ; 4 : 1-22). Họ đã là hai trong số ba nhân chứng về biến cố Biến Hình, chắc chắn kinh nghiệm nầy sẽ giúp họ hiểu biến cố mà họ sẽ trải qua vào sáng này.
Thánh Phê-rô lớn tuổi hơn, vì thế ông không thể chạy theo kịp thánh Gioan. Thánh Gioan đến mộ trước, nhưng chỉ đứng ngoài mà liếc nhìn vào bên trong ngôi mộ. Để tỏ lòng kính trọng người lớn tuổi, thánh Gioan đứng đợi và nhường cho thánh Phê-rô vào mộ đầu tiên. Chi tiết này hé mở cho thấy thánh nhân nhận ra ở nơi thánh Phê-rô địa vị cao hơn. Trong Tin Mừng Gioan, quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô sẽ được khẳng định chỉ sau cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh bên bờ hồ Ti-bê-ri-a (21: 15-19), nhưng được hàm chứa rồi ở nơi sự kiện Đức Giê-su đổi tên cho thánh nhân từ “Si-mon” sang “Kê-pha” (tức Phê-rô) trong cuộc gặp gỡ đầu tiên của thánh nhân với Ngài (1: 42).
Tin Mừng Gioan vạch rõ ra rằng dù các người phụ nữ, đặc biệt bà Ma-ri-a Mác-đa-la, đến mộ trước tiên, các Tông Đồ là những người đầu tiên đi vào trong ngôi mộ và chứng kiến ngôi mộ trống, bằng chứng đầu tiên về việc Đức Giê-su phục sinh. Điều này rất quan trọng, vì theo luật Do thái, một sự kiện chỉ được chứng thực nếu có tối thiểu hai nhân chứng. Trước kia, Đức Giê-su đã nhắc lại luật này cho những người Pha-ri-sêu : “Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật” (Ga 8 : 17). Ngoài ra, theo Luật, lời chứng của các người phụ nữ thì không có giá trị.
4.Ánh sáng niềm tin bừng lên trong lòng người môn đệ Chúa yêu:
Không chỉ chứng kiến ngôi mộ trống, các ông còn thấy cảnh tượng: băng vải liệm vẫn còn ở đó và khăn che đầu được cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Sự thể này càng đánh động sâu xa hai vị Tông Đồ. Nếu thi thể bị đánh cắp, chắc hẳn băng vải liệm đã bị vất bừa bãi rồi; thế mà, mọi sự vật đều được xếp gọn gàng ngăn nắp.
Khi thấy cảnh tượng này, làm thế nào các ông không nhớ lại cảnh tượng của anh La-za-rô, khi anh được sống lại ra khỏi mồ, chân tay còn quấn vải và mặt còn phủ khăn? Anh La-za-rô được Chúa cho sống lại để rồi một ngày kia lại chết. Đức Giê-su thì hoàn toàn tự do, thoát khỏi bất cứ mọi ràng buộc nào của cái chết, nghĩa là tử thần không còn có quyền gì trên Ngài nữa. Chắc chắn hai vị tông đồ đã hiểu dấu chỉ nầy và bị chấn động đến mức mà thánh Gioan, người môn đệ Chúa yêu, “đã thấy và đã tin”: rõ ràng dụng ngữ này diễn đạt quá trình từ “nhìn thấy” đến gắn bó trọn vẹn với Đấng Phục Sinh.
Ánh sáng niềm tin bừng lên ở nơi người môn đệ Chúa yêu nầy trong ngôi mộ trống khi vừa chứng kiến băng vải liệm và khăn che đầu được xếp gọn gàng ngăn nắp. Nếu niềm tin của thánh nhân đã có thể bị lay động ít nhiều bởi những biến cố đau thương của Thầy, thì tình yêu của ông đã không hề suy giảm. Chính tình yêu mãnh liệt này đã thôi thúc ông theo bước chân Thầy cho đến nhũng giây phút cuối cùng của Thầy bên cạnh thập giá. Độ nhạy bén của tình yêu dẫn ông đến niềm tin ngay tức khắc: “Thầy đã sống lại rồi”. Cũng chính độ nhạy bén của tình yêu này mà vài ngày sau đó ông sẽ có thể nhận ra Thầy mình trên bờ hồ trong sương sớm: “Chúa đó” (Ga 21 : 7) trong khi những người khác chưa nhận ra. Trong ngôi mộ trống này, người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ thấy cái tối thiểu, tuy nhiên ông tin tối đa. Độ nhạy bén của con tim giúp ông hiểu biết con người và sự việc hơn bất kỳ ai khác.
5.Ơn soi sáng của Kinh Thánh:
Nếu đức tin nẩy sinh từ độ nhạy bén của một con tim “quen hơi bén tiếng”, tuy nhiên nó cũng cần được lý trí soi sáng. Câu nói: “Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Ki-tô phải chỗi dậy từ cõi chết”, ám chỉ đến một tiến trình theo đó các môn đệ hậu phục sinh giải thích biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô nhờ ánh sáng Cựu Ước (Ga 2 : 17, 22; 12 : 16); hơn nữa, Chúa Thánh Thần, Đấng soi lòng mở trí cho các môn đệ hiểu nội dung Kinh Thánh, hiện nay chưa được ban cho (Ga 14 : 26 ; Lc 24 : 45).
Các bản văn Kinh Thánh lại hiện ra trong tâm trí các ông. Người ta có thể phỏng đoán rằng họ nghĩ đến Tv 16, vì vài tuần sau đó, chính Thánh Vịnh nầy mà thánh Phê-rô sẽ viện dẫn cho đám đông ở Giê-ru-sa-lem để đưa ra những khẳng định của mình liên quan đến biến cố Phục Sinh (Cv 2 : 24-31). Quả thật, trong Thánh Vịnh này, chúng ta đọc thấy:
“Thân xác con cũng nghĩ ngơi an toàn.
Vì Chúa chẳng đành để mặc con trong cõi âm ty,
không để kẻ hiếu trung nầy hư nát trong phần mộ”.
Ấy vậy, truyền thống Do thái đã áp dụng Thánh Vịnh này vào Đấng Mê-si-a. Như vậy, các ông rời bỏ ngôi mộ với hai niềm xác tín: trước hết, chứng thực những gì mà hai ông đã chứng kiến: “Chúng tôi đã thấy và chúng tôi xin làm chứng”; sau nữa, khẳng định những lời Kinh Thánh loan báo về Thầy mình.
D/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
1. DẪN NHẬP
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay đều nói đến việc Đức Giêsu sống lại. Thánh Phêrô đã loan báo cho quan bách quản Cornêliô về các sự việc đã xảy ra nơi Chúa: đi truyền giáo, chịu chết trên thập giá và sống lại vinh quang (Bđ1).
Thánh Gioan nói cho biết sự kiện ngôi mộ trống mà ngài đã tận mắt trông thấy là bằng chứng nói lên việc Chúa sống lại (Bài Tin mừng). Còn thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy tin vào Chúa sống lại, hãy hướng lòng về trời là quê hương thật và đừng để những đam mê trần tục chi phối làm hư hỏng con người (Bài đọc 2).
2. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Cv 10, 34.37-43
Viên quan bách quản Rôma, là người ngoại giáo, khi nghe biết về Chúa Giêsu, đã đến xin ông Phêrô làm phép rửa để được gia nhập cộng đoàn các tín hữu đầu tiên. Thánh Phêrô đã nhắc cho ông và gia đình ông niềm tin căn bản này: Đức Giêsu đã phục sinh. Đây là bài giảng đầu tiên mà Phêrô dạy dỗ cho những người tân tòng. Thánh kinh gọi bài giảng truyền giáo này là Keryma. Lược đồ của mỗi Kerygma thường là: a) Tóm tắt cuộc đời của Đức Giêsu ở trần thế. b) Cái chết của Ngài. c) Việc Ngài sống lại. d) Kêu gọi hãy tin vào Ngài để được ơn cứu độ.
Tin vào Chúa Kitô phục sinh là một điều kiện tiên quyết phải có, vì nếu Chúa không sống lại thì niềm tin của ta trở nên trống rỗng. Sự phục sinh của Chúa chính là trung tâm của lịch sử nhân loại, là nền tảng cho niềm tin Kitô giáo.
+ Bài đọc 2: Cl 3, 1-4
Trong bức thư gửi cho tín hữu Colossê, thánh Phaolô kêu gọi những ai đã nhờ phép rửa mà được tham dự vào mầu nhiệm Vượt qua, hãy sống một đời sống toả hương thánh thiện: “Hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3, 1-2).
Các tín hữu đã tin vào Chúa Phục sinh, nhưng chưa đủ, còn phải thể hiện niềm tin đó trong cuộc sống. Mặc dầu phải sống giữa những thay đổi của trần gian này, phải chịu vật chất chi phối, nhưng đừng để lòng mình ra nặng nề, hãy hướng lòng trí về trời là quê hương thật. Đức Kitô phục sinh đem đến cho chúng ta niềm hy vọng trong cuộc sống hiện tại để hướng về cuộc sống mai hậu.
Người tín hữu tìm được ý nghĩa thực của đời sống dưới ánh sáng phục sinh mà họ đang tiến về. Do đó, họ không được thoát ly khỏi cuộc sống đời này với nhiều nghĩa vụ, bao gian nan thử thách; tuy thế, họ đã tìm được ý nghĩa của cuộc sống trong sự kết hợp với Đức Kitô Phục sinh.
+ Bài Tin mừng: Ga 20, 1-9
Trong bài Tin mừng này, thánh Gioan nhắc đến Maria, người tội lỗi, mà Chúa đã trừ cho khỏi bảy quỷ. Bà rất yêu mến Chúa. Ngay sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần bà đã ra mộ viếng Chúa, nhưng thấy mộ trống. Bà tức tốc chạy về báo tin cho ông Phêrô và các Tông đồ biết: người ta đã lấy trộm xác Chúa. Ông Phêrô và Gioan đã ra mộ và thấy sự kiện ấy: ngôi mộ trống. Phêrô tỏ ra không hoảng hốt, ông bình tĩnh, xem ra ông đã tin Thầy mình phục sinh rồi.
Thực ra, sự kiện ngôi mộ trống chưa có thể xác quyết được sự kiện Chúa sống lại. Chúng ta còn phải nhờ Kinh thánh và với đức tin chân thật thì mới có thể tin Chúa đã sống lại. Chính người Do thái không tin vào sự kiện đó và cho rằng xác Đức Giêsu đã bị lấy trộm đi. Việc Chúa sống lại chỉ là tin vịt do các môn đệ dựng nên. Tuy thế, đối với ông Gioan thì không còn nghi ngờ gì nữa: “Ông đã thấy và ông đã tin” (Ga 20, 9).
3. THỰC HÀNH LỜI CHÚA:
THÀNH CÔNG HAY THẤT BẠI
- ĐỨC GIÊSU THÀNH CÔNG HAY THẤT BẠI?
Trong mùa chay, cách riêng trong tuần thánh vừa qua, tâm trí chúng ta luôn luôn bị căng thẳng, tâm hồn chúng ta luôn luôn bị xúc động và hồi hộp khi suy ngắm những biến chuyển nơi Chúa Giêsu trước đây trên hai ngàn năm, mà Giáo hội đã diễn lại một cách sống động khác nào sự việc đang xảy ra vậy:
Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem (Ga 12, 13) – Chúa từ giã các môn đệ (Mt 16, 45) – Chúa ăn bữa tối sau hết (Mc 14, 15) – Chúa rửa chân cho 12 Tông đồ (Ga 13, 50 – Chúa lập phép Thánh Thể (Lc 22, 17) – Chúa vào vườn Cây Dầu cầu nguyện (Lc 22, 42) – Chúa bị Giuđa tìm bắt (Lc 22, 48) – Chúa bị điệu đến dinh Philatô (Lc 23, 1) – Chúa chịu đánh đòn (Mt 26, 67) – Chúa chịu đội mão gai (Mt 27, 29) – Chúa bị nhạo báng (Mt 27, 30) – Chúa phải vác thánh giá nặng (Lc 23, 26) – Và sau cùng Chúa phải chịu đóng đinh vào thập giá (Lc 23, 33).
Tất cả những điều này đã làm lu mờ sự nghiệp của Chúa: nào làm bánh hoá ra nhiều – nào kẻ mù được sáng – kẻ điếc được nghe – kẻ câm được nói – kẻ què được đi – kẻ chết sống lại với những niềm tin Người là Đấng Cứu thế muôn dân đợi trông – là Con Thiên Chúa, tất cả đều tan đi như mây khói.
Nhưng ở đời có tan thì lại có hợp, có mưa rồi lại có nắng, và có thất bại rồi mới có thành công vì như người ta nói: “Thất bại là mẹ thành công”.
Nếu chỉ dừng lại ở đây thì Đức Giêsu đã thất bại hoàn toàn, bởi vì người ta thường nói: chết là hết, bao nhiêu sự nghiệp đều tiêu tan. Có biết bao nhiêu anh hùng cái thế, bao nhiêu bậc vĩ nhân trên thế giới đã làm được những công việc vĩ đại, nhưng rồi họ cũng đã ra đi, họ bị lãng quên cùng thời gian, hoạ chăng chỉ còn trong sử sách.
Nhưng đối với Đức Giêsu, Ngài đã thành công giữa những thất bại. Những thất bại Ngài phải chịu trong một thời gian càng làm cho thành công của Ngài thêm vinh quang. Đúng như văn hào Corneille đã nói: “Chiến đấu có gian nan, khải hoàn mới vinh quang”.
Nhìn vào cuộc tử nạn của Ngài, ta thấy Ngài thất bại hoàn toàn, bởi vì bao nhiêu sự nghiệp lẫy lừng Ngài đã làm trong ba năm truyền giáo đã bị tiêu tan. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại như lời Ngài đã báo trước lúc còn sinh thời. Ngài đã sống lại, nên các sự nghiệp xem ra đã bị tiêu tan, ngày nay cũng được sống lại theo và muôn đời sẽ còn ghi nhớ những công việc ấy. Ngày nay, sau 2000 năm, hằng tỷ người vẫn còn nhắc đến những sự kiện ấy, nhất là trong Tuần thánh vừa qua.
2. THẤT BẠI VÀ THÀNH CÔNG TRONG ĐỜI THƯỜNG.
1. Suy nghĩ của người đời
Trong cuộc sống hằng ngày, không ai dám nói rằng mình chưa bao giờ gặp đau khổ, chưa bao giờ nếm mùi thất bại, chỉ có những kẻ không làm gì thì mới không thất bại. Thất bại và thành công luôn đi đôi với nhau, cũng như vinh với nhục là chị em với nhau, đã có vinh thì có nhục, như người ta nói:
Nước dưới sông có khi trong khi đục,
Trang anh hùng có khi nhục khi vinh (Tục ngữ)
Xưa nay biết bao người không thành công, chí không đạt được, là vì bỏ cuộc giữa đường, thất vọng tràn trề khi gặp hết tai nọ đến nạn kia. Người có chí phải bền gan gánh vác việc đời, bắt chước theo câu phương ngôn người Nhật: “Ngã xuống bảy lần, lần thứ tám đứng dậy” mà hành động thì mới mong thành đạt.
Ngày xưa, Hán Bái Công đánh với Hạng Vũ, trăm trận đều thua, vậy mà ông vẫn không hề thối chí, cho đến khi thắng trận cuối cùng thì thành được đế nghiệp. Lưu Bị đời Tam Quốc, lúc chưa gặp thời, lang thang ở trọ hết nơi này sang nơi khác, không mảnh đất dung thân, thất bại bao phen, nhiều lần suýt vong mạng, vậy mà vẫn bền gan chịu đựng cho đến ngày làm vua một cõi (Nguyễn Văn Y, Có chí thì nên, 1971, tr 24-25).
Muốn thành công phải chấp nhận thất bại vì như người ta thường nói: “Thất bại là mẹ thành công”. Đối với người hèn kém, thất bại là cơ hội làm cho họ nhụt chí, còn đối với người hùng, thất bại là dịp thúc đẩy họ tiến lên hơn.
Vì thế, René Bazin thuộc hàn lâm viện Pháp, có khuyên mọi người: “Đừng sợ thất bại. Lần thất bại thứ nhất cần phải có, vì nhờ đó mà ý chí ta thêm cứng cát. Lần thất bại thứ hai có thể có ích. Bị bại lần thứ ba mà anh vẫn đứng vững, thì anh thật là một người…, anh như chùm nho chín ở trên đá sỏi: Không có thứ nho nào ngọt hơn nữa”.
Hòn sỏi nào tròn trịa trơn láng mà chẳng phải chịu biết bao nhiêu sự cọ xát từ tháng năm này sang tháng năm khác. Con người muốn đạt được sự cao quý của tâm hồn, học hỏi được kinh nghiệm sống, không thể chưa từng va chạm tới trăm đau nghìn khổ. Xưa nay anh hùng hào kiệt, chí sĩ văn gia, những bậc tài hoa dường như đều trần ai như thế cả. Nếu mỗi lần gặp gian nguy, trở ngại mà lùi lại thì bao giờ mới đặt chân được đến đài vinh quang (Sđd trg 27).
Cũng trong tư tưởng ấy, Tổng thống Abraham Lincoln nói: “Điều mà tôi muốn hiểu trước hết, không phải là anh có thất bại không, mà là anh có biết chấp nhận sự thất bại của anh không”.
Ông Henry Ford cũng khuyên: “Một cuộc thất bại chỉ là cơ hội để thử lại lần thứ nhì với nhiều khôn ngoan hơn”.
2. Chuyển bại thành thắng
Trong cuộc sống thường ngày cũng như trong đời sống thiêng liêng, chúng ta đã có kinh nghiệm: không thiếu gì thành công, nhưng cũng chứa đầy thất bại. Có người vui sướng đón nhận những thành công và buồn rầu chấp nhận thất bại; nhưng cũng có những con người xứng đáng là con người: đón nhận thành công, nhưng cũng bình tĩnh và đôi khi vui lòng đón nhận thất bại. Đối với những con người này, họ coi thất bại chỉ là động lực khiến họ mạnh dạn tiến lên đến thành công. Thành thử, thất bại không còn gì là đáng sợ mà chỉ là cơ hội cho họ can đảm hơn.
Ai cũng đã có lần thành công mỹ mãn, nhưng cũng đã có lần gặp những thất bại chua cay. Thất bại cũng có ý nghĩa của nó. Có hai loại thất bại:
– Thất bại khách quan (hay thụ động, tiêu cực).
– Thất bại chủ quan (hay chủ động, tích cực).
Thất bại khách quan: đó là những thất bại không thể tránh được, vì nó vượt quá sức lực của con người. Đó là tình trạng bi đát, không còn cách nào tránh né và cũng không thể trỗi dậy được. Đối với những loại thất bại này, người ta chỉ thụ động chịu đựng ví dụ như bệnh tật, sa cơ thất thế, thua trận…
Thất bại chủ quan: đó là những thất bại có tính toán trước theo phương pháp: “Thả con tép, bắt con tôm” hay “Hy sinh đời bố, củng cố đời con”. Người ta sẵn sàng chịu những thất bại nhỏ, để đạt tới những thành công lớn, hay ít ra chịu thất bại trước mắt để thành công trong tương lai. Như vậy, người ta không nhằm rước lấy thất bại những nhằm đón lấy thành công sau này.
– Chúng ta đã có kinh nghiệm trong thể thao: muốn nhảy xa, muốn nhảy cao, người ta phải lùi lại nhiều bước rồi mới tiến lên, mới nhảy cao, nhảy xa được. Những bước lùi đó chính là những bước tiến, vì không có nó thì không thể nhảy cao, nhảy xa được.
– Trong chiến trận cũng thế: đôi khi người ta phải giả vờ thua chạy tháo lui cho quân địch đuổi theo, khi quân địch lọt vào vòng vây, khi ấy người ta mới phản công, chiến thuật này rất nguy hiểm, đã bị lọt vào trong vòng vây, quân địch không còn cách nào tháo lui được nữa và chắc chắn người ta thành công.
– Trong cuộc sống hằng ngày, người ta cần phải hiểu phương cách “Tiến thoái”. Tiến là đi lên, thoái là đi xuống hoặc rút lui. Có một sự tương quan biện chứng giữa tiến và lùi. Tiến chưa hẳn đã thắng và lùi chưa hẳn đã thua. Trong cái lùi đã có cái thắng. Như trong thể thao và trận chiến, chúng ta đã nhận thấy phải có lùi thì mới tiến được, lùi là điều kiện phải có để tiến, lùi đây là lùi chiến thuật. Chúng ta thử xem câu nói này có đúng không? Mới đọc xem ra vô lý, nhưng nếu suy nghĩ kỹ thì câu nói ấy rất hay. Đây là một kiểu nói bắt người đọc phải động não mới tìm ra ý nghĩa của nó: “Một ngàn việc tiến, chín trăm chín mươi chín việc lùi, đó là TIẾN BỘ” (Henri Frédéric Amiel).
III. THẤT BẠI VÀ THÀNH CÔNG TRONG ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG
- Chúa đã sống lại thật
Khi còn sinh thời, Đức Giêsu đã nhiều lần loan báo trước Ngài sẽ bị bắt, đánh đòn, giết chết và sau ba ngày thì sống lại. Sự kiện tiên tri Giona nằm trong bụng cá ba ngày và việc xây thành Giêrusalem trong ba ngày đã là những hình ảnh báo trước việc Đức Giêsu sống lại sau ba ngày đã chết. Trên dương gian này, những ai đã chết là chết luôn, chỉ có Đức Giêsu mới có thể dùng quyền năng của mình mà tự sống lại.
Đức Giêsu đã sống lại thế nào? Ai đã khám phá ra điều này? Cả bốn sách Tin mừng đều tường thuật về biến cố này, nhưng đều không cho biết Đức Giêsu đã sống lại thế nào. Vì thật sự, không ai có mặt để chứng kiến biến cố lịch sử quan trọng này. Nhưng có những nhân chứng đã thấy ngôi mộ trống, họ quả quyết xác Chúa không còn trong mộ, và sau đó Chúa đã hiện ra nhiều lần với họ, xác nhận Ngài đã sống lại, đồng thời dạy bảo họ nhiều điều. Đó là các Tông đồ và một số phụ nữ… những nhân chứng về sự sống lại của Đức Giêsu.
Như vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Đức Giêsu phục sinh không thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh chứng một biến cố, một sự kiện tự nhiên mà phải dùng đến đức tin. Cho nên, đối với chúng ta việc Chúa sống lại là vấn đề đức tin: phúc cho ai không thấy mà tin.
- Phải sống theo niềm tin ấy
Trong mùa Phục sinh chúng ta vẫn đọc đi đọc lại câu: “Người đã sống lại thật như lời đã phán hứa”. Chúng ta tin thật Đức Giêsu đã sống lại như lời minh chứng của Thánh kinh, chúng ta hân hoan ca mừng việc Chúa sống lại, vì Ngài đã chết để tiêu diệt sự chết và đã sống lại để phục hồi sự sống cho chúng ta. Chúng ta tin chắc như vậy!
Nhưng tin như thế vẫn chưa đủ, còn phải thể hiện niềm tin ấy ra trong cuộc sống hằng ngày. Phải theo gương Đức Giêsu mà chết đi để rồi mới sống lại được. Phần thưởng của chúng ta chỉ có được sau khi đã trải qua mọi thử thách trong cuộc sống ở trần gian này: Per crucem ad lucem!
a)Có những nghịch lý phải chấp nhận
Chúng ta đã có một gương sáng lạn của Đức Giêsu: Người đã chịu chết để chuộc tội cho nhân loại. Trước mặt người đời, người ta cho là Đức Giêsu đã thất bại hoàn toàn, vì chết là một thất bại, mọi sự nghiệp đã tan thành mây khói. Nếu chết là hết mà không có sự sống lại thì Đức Giêsu bị thất bại hoàn toàn, nhưng sau cái chết đã có sự sống lại. Người đã dùng sự chết để đánh tan cái chết và sống lại để phục hồi sự sống lại cho chúng ta. Vậy Ngài đã chuyển bại thành thắng, đã thành công trong thất bại.
Trong cuộc sống của chúng ta cũng thế, chúng ta phải chấp nhận hy sinh, phải lột bỏ con người cũ đầy tội lỗi, để mặc lấy con người mới thánh thiện. Chúng ta có chết đi cho tội lỗi thì mới hy vọng được sống lại vinh quang, như lời Chúa Giêsu đã nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24).
Như vậy, chúng ta phải đón nhận những thất bại đời này để chuẩn bị cho đời sau. Đây chỉ là thất bại chiến thuật vì trong thất bại đã có chiến thắng. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thấy có những nghịch lý. Nghịch lý là điều thoạt xem có vẻ phi lý, nhưng khi suy nghĩ kỹ thì thấy rất hợp lý. Chúng ta thấy có nghịch lý giữa “mất” và “được” hay giữa “bị” và “được”. Theo khuynh hướng tự nhiên thì ai cũng muốn “được” và sợ “mất”, muốn “sống” hơn là “chết”. Nhưng nghịch lý thay! Nhiều khi vì “được” mà phải “mất”. Ví dụ: bạn muốn cho có một mùa bội thu thì hạt giống phải “bị” mục nát ra thì mới có thể “được” một mùa bội thu, nếu không “bị” thì cũng chẳng có “được”.
Hay một ví dụ khác: trong một vụ tranh cãi bạn cố gắng dùng đủ mọi mưu mô để tranh cãi cho bằng được, kết quả là bạn thắng trong vụ cãi nhưng mất tình nghĩa bạn bè hay người thân; trái lại, nhiều khi “mất” mà lại “được”. Ví dụ: thánh Anphongsô là một luật sư nổi tiếng. Một lần kia ngài biện hộ cho một vụ kiện lớn, ngài bị thua. Thất bại ê chề hôm đó đã giúp cho ngài nhận thức rằng danh vọng thế gian chỉ là giả trá, ngài đi tìm một lẽ sống khác và trở thành một vị thánh lập dòng (Cf Lm. Carôlô). Chúng ta cũng thấy có một nghịch lý nữa giữa “sống” và chết”. Chết và sống không phải là hai điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ nhau: sự chết nuôi sự sống và sự sống sống được là nhờ sự chết. Ví dụ: con vật phải chết đi mới có thịt nuôi sống con người, hay cây nến sáp phải chảy ra và bị đốt thì ánh sáng mới bùng lên soi sáng cho con người.
Đối với cái chết của Chúa trên thập giá cũng vậy. Đức Giêsu chính là Đấng mà con rắn đồng trong sa mạc là hình ảnh loan báo trước: “Khi các ông đưa Con người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai”. Như thế việc Đức Giêsu chết trên thập giá không phải là một thất bại mà là một chiến thắng. Ngài không “bị” mà “được” đưa lên cao, để trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai tin tưởng nhìn lên Ngài.
Vì thế, chính khi Chúa “bị” giết chết trên thập giá là lúc Ngài “được” tôn vinh và là nguồn ơn cứu độ cho nhiều người. Khi chúng ta “bị” đau khổ, nhưng biết nhìn lên thập giá Đức Giêsu là lúc chúng ta “được” cứu độ. Nhìn ngược lại ngày xưa, khi nguyên tổ loài người tưởng mình “được” bằng Thiên Chúa, thì lại “bị” đuổi ra khỏi vườn địa đàng.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hãy nghiền ngẫm câu nói của Đức Giêsu: “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12, 25). Như vậy, chúng ta thấy rõ tương quan giữa cái “mất” và cái “còn”.
Truyện gợi ý: Phải biết tan biến đi
Nếu Đức Giêsu là người Ả rập, thì thay vì hình ảnh của hạt lúa được gieo vào lòng đất, có lẽ Ngài sẽ kể câu truyện ngụ ngôn sau đây: Một dòng suối mát rơi từ ngọn núi, chảy qua một đồng bằng cho đến khi chạm đến một sa mạc. Tại đây, nó chợt nhận ra nước của mình bắt đầu bốc hơi và khô dần. Dù vậy, dòng nước vẫn quyết tâm băng qua sa mạc. Nó nghe có tiếng thì thầm:
– Nếu ngươi muốn, ngươi có thể băng qua sa mạc được, bởi vì gió vẫn làm được điều đó. / Dòng suối giận dữ:
– Nhưng ta có phải là gió đâu? / Nó thấy gợi ý của tiếng thì thầm là điều ngu xuẩn, tiếng nói vẫn tỏ ra kiên nhẫn:
– Gió sẽ mang ngươi đi. Dĩ nhiên với điều kiện là ngươi phải tan biến đi trong gió.
Dòng suối suy nghĩ miên man về ý nghĩa này: nó vẫn chưa hiểu được tại sao nó phải tan biến đi, phải chăng nó phải đánh mất chính mình? Điều gì bảo đảm được rằng khi băng qua hết sa mạc, nó sẽ tìm lại được bản thân một cách nguyên vẹn? Đọc được ý nghĩ của nó, gió mới lên tiếng:
– Ngươi chỉ cần tin tưởng nơi ta, không còn cách nào khác nữa đâu. / Dòng suối vẫn tiếp tục giữ giọng kiêu hãnh:
– Đồng ý, nhưng ta không thể chấp nhận tan biến được. / Tiếng nói thì thầm giải thích:
– Ngươi không thể băng qua sa mạc mà vẫn giữ nguyên hình nguyên trạng được. Làm thế ngươi chẳng khác nào một con rắn xấu xí, nhưng nếu ngươi để cho gió mang ngươi đi xuyên qua sa mạc, thì bên kia sa mạc, ngươi sẽ hiện nguyên hình là một dòng suối xinh đẹp. / Dòng suối thắc mắc:
– Vẫn một dòng suối như cũ ư? / Giọng nói giải thích:
– Dĩ nhiên, ngươi sẽ tìm gặp lại bản thân, tóm lại nếu ngươi cứ chần chừ đứng ở đây, ngươi cũng sẽ đánh mất chính mình ngươi mà thôi.
Thế là dòng suối chấp nhận biến thành hơi nước và để cho gió mang đi. Nó cùng với gió băng qua sa mạc. Và khi cả hai đến đầu ngọn núi bên kia sa mạc, gió để cho nó rơi từ từ như mưa. Không mấy chốc, dòng suối gặp lại chính nó, đẹp hơn, trong suốt hơn (R. Veritas, Mạch nước trường sinh, tr 96-97).
Hạt lúa có được gieo vào lòng đất để thối đi mới có thể sinh hoa kết quả. Dòng suối có chấp nhận tan biến trong gió mới có thể gặp lại bản thân. Đây là định luật của cuộc sống thiêng liêng mà Đức Giêsu đã vạch ra cho chúng ta. Đây là con đường siêu thoát, con đường chiến đấu, ai muốn được sự sống đời đời không thể đi theo con đường nào khác.
b)Chiến đấu không lùi bước
Đức Giêsu đã chỉ đường dẫn lối cho chúng ta tiến tới cuộc sống đời đời. Con đường ấy là con đường khổ giá. Con đường từ bỏ, con đường siêu thoát chính mình vì Chúa đã phán: “Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”. Đấy là con đường một chiều, ai đã theo thì chỉ có tiến chứ không có lùi, như thế mới xứng đáng làm môn đệ của Chúa: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc 9, 62)
Thập giá của Chúa trao không nặng lắm, luôn vừa sức ta, nhưng đòi hỏi ta phải kiên trì vác hằng ngày, vì sự khốn khó ngày nào đủ cho ngày ấy. Hãy bắt tay vào việc ngay, đừng chần chừ, đừng để công việc hôm nay sang ngày hôm sau. Về vấn đề này, ta hãy nghe John Newton nói:
“Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta không vác nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục… Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay, mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi”.
Hãy tin tưởng cất bước, quyết không lùi trước những khó khăn. Phần thưởng chỉ dành cho những ai chiến đấu và kiên trì cho đến cùng. Hãy tin tưởng vào Chúa, Đấng đã trải qua mọi khó khăn sẽ giúp đỡ chúng ta vượt qua mọi thử thách. Trong cuộc chiến này, chúng ta chỉ biết tiến chứ không biết lùi.
Truyện: Quên bài kèn rút lui
Trong một trận giao tranh ác liệt giữa quân của Napoléon và quân địch, trận chiến càng về khuya càng ác liệt và phần thắng dần dần nghiêng về phía địch. Quân của Napoléon chết rất nhiều, hàng ngũ rối loạn, mặc dầu cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp tục nhưng rời rạc. Nhìn rõ thế trận, Napoléon biết phải làm gì, vua gọi tên lính thổi kèn lại gần và ra lệnh: “Hãy thổi kèn lui binh, vì quân ta chết quá nhiều”.
Tên lính trẻ được lệnh, nhảy tót lên ngựa, phi nhanh ra giữa trận, và đưa kèn lên thổi hồi kèn thúc trận một cách mạnh mẽ. Quân của Napoléon đang mệt mỏi và thất vọng, nghe tiếng kèn thúc quân, tưởng có viện binh tới giúp, chồm dậy phản công kịch liệt. Kèn cứ thổi, đám tàn quân vươn mình lên vừa đánh vừa la hét. Kết quả thế trận thay đổi: quân của Napoléon toàn thắng bất ngờ. Tuy nhiên, hoàng đế Napoléon sai bắt tên lính kèn kia lại, và khiển trách y rất nặng nề về tội bất tuân thượng lệnh. Anh lính bình tĩnh tâu: “Muôn tâu đức vua, từ khi được theo bước chân ngài trong binh lửa, và chiến đấu trăm trận đều trăm thắng cho nên hạ thần đã quên hẳn bài kèn rút lui rồi”.
Muốn có chiến thắng thì phải chiến đấu. Chiến đấu càng cam go, chiến thắng càng vinh quang. Không có thành công nào mà không đòi cố gắng. Thành công của chúng ta là biết lắng nghe và thi hành thánh ý Chúa. Để giúp chúng ta biết cách kiên trì sống theo thánh ý Chúa với niềm tin tưởng trong gian truân, chúng ta hãy đọc đoạn thư của thánh Phaolô tông đồ gửi cho tín hữu Do thái sau đây:
“Anh em đã quên lời khuyên nhủ được nói với anh em như với những người con: Con ơi, đừng coi nhẹ Lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy? Nếu anh em không được sửa dạy như tất cả mọi người, thì khi đó anh em là con ngoại hôn, chứ không phải là con chính thức. Vả lại, chúng ta có cha trần thế sửa dạy mà chúng ta vẫn tôn kính, thì chúng ta lại càng phải tùng phục Cha trên trời để được sống. Cha trần thế sửa dạy chúng ta trong một thời gian ngắn, và theo sở thích của mình; còn Thiên Chúa sửa dạy là vì lợi ích của chúng ta”.