“Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em,
vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời”.
(Mt 23,9)
BÀI ĐỌC I: Is 1, 10. 16-20
“Các ngươi hãy học làm điều lành và tìm kiếm công lý”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Hỡi các Thủ lãnh thành Sôđôma, hãy nghe lời Chúa; hỡi dân thành Gômôra, hãy lắng nghe lề luật của Thiên Chúa chúng ta. Các ngươi hãy tắm rửa, hãy thanh tẩy, đừng làm điều xấu nữa, hãy làm điều lành; hãy tìm kiếm công lý, hãy cứu giúp kẻ bị áp bức, hãy xét xử công bằng cho những trẻ mồ côi và bênh vực người goá bụa.
Và Chúa phán: “Các ngươi hãy đến và đối chất với Ta: cho dầu tội lỗi các ngươi như màu đỏ thắm, cũng sẽ trở nên trắng như tuyết; cho dầu đỏ như vải điều, cũng sẽ trở nên trắng như len. Nếu các ngươi quyết tâm nghe Ta, các ngươi sẽ hưởng hoa màu ruộng đất; nhưng nếu các ngươi cố chấp không nghe và khiêu khích Ta, thì lưỡi gươm sẽ tiêu diệt các ngươi, vì miệng Chúa phán như thế”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 49, 8-9. 16bc-17. 21 và 23
Đáp: Ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ (c. 23b).
Xướng:
1) Ta không khiển trách ngươi về chuyện dâng lễ vật, vì lễ toàn thiêu của ngươi đặt ở trước mặt Ta luôn. Ta không nhận từ nhà ngươi một con bò non, cũng không nhận từ đoàn chiên ngươi những con dê đực. – Đáp.
2) Tại sao ngươi ưa kể ra những điều huấn lệnh, và miệng ngươi thường nói về minh ước của Ta, ngươi là kẻ không ưa lời giáo huấn, và ném bỏ lời Ta lại sau lưng ? – Đáp.
3) Ngươi làm thế, mà Ta đành yên lặng ? Ngươi đã tưởng rằng Ta giống như ngươi ? Ta sẽ bắt lỗi, sẽ phơi bày trước mặt ngươi tất cả. Ai hiến dâng lời khen ngợi, người đó trọng kính Ta; ai đi đường ngay thẳng, Ta chỉ cho thấy ơn Thiên Chúa cứu độ. – Đáp.
Bấy giờ, Đức Giê-su nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy.
Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm. Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy.
Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”.
“Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là “ráp-bi”, vì anh em chỉ có một Thầy ; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời.
Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Ki-tô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống ; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.
Suy niệm
1. Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
ĐỪNG CÓ GIẢ HÌNH
- Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người luật sĩ và biệt phải giả hình. Họ là những người nói nhiều làm ít, mồm miệng đỡ chân tay, nói hay nhưng làm dở. Họ lo tô vẽ dáng bề ngoài cho đạo đức mẫu mực nhưng lòng họ thì hám danh, phô trương và tham lam. Chúa phân biệt rõ hai phương diện: những gì họ nói thì đều là nói Lời Chúa, nên hãy nghe theo; nhưng những việc họ làm thì mâu thuẫn với những lời họ giảng dạy, cho nên đừng bắt chước.
- Luật sĩ và biệt phái tượng trưng cho quyền bính trong dân. Họ có bổn phận phải giảng dạy dân chúng và người dân có nghĩa vụ tuân giữ những lời họ giảng dạy. Thế nhưng nhiều lần họ đã bị Đức Giêsu khiển trách, chỉ vì họ tự cho mình là tài giỏi, đạo đức, từ đó họ phê bình chỉ trích lên án người khác; làm gì họ cũng muốn cho người khác thấy và khen ngợi; họ ham muốn danh vọng chức quyền, luôn luôn lên mặt dạy đời, nhất là họ nói mà không làm.
Tuy thế, Chúa vẫn khuyên chúng ta tôn trọng họ vì họ có nghĩa vụ giảng dạy, và hãy thực hiện những lời họ giảng dạy. Vì thế Chúa phán: “Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ!”
- “Các ngươi chất lên vai kẻ khác những gánh nặng…”
Thật vậy, nhiều tiến sĩ luật Do thái ưa nói về luật cách tỉ mỉ, nhưng lời nói của họ không đi đôi với việc làm, nói một đàng làm một nẻo, lo tô vẽ cho cái bên ngoài nhằm che đậy sự xấu xa lợi dụng trong lòng họ. Họ dạy luật thì để cho dân giữ, còn chính họ lại không làm gương, họ dùng luật làm thứ bình phong che chắn và làm lợi cho họ, còn dân chúng thì cảm thấy nặng nề, để rồi thay vì yêu mến và tự nguyện, họ chỉ giữ vì buộc phải giữ và luật trở thành gánh nặng đè trên vai họ.
Phải chăng chỉ những luật sĩ và biệt phái thời xưa mới kiêu căng giả hình ? Phải chăng thời nay không còn hạng người đó nữa ? Nhan nhản trước mắt chúng ta: biết bao người ngoài miệng rêu rao là vị nhân vị nghĩa, mà kỳ thực, họ tham lam, ích kỷ, tự tôn, lợi dụng thế lực để bóc lột người khác; họ lường gạt xảo trá không những đối với con người mà cả với Chúa nữa.
Aristogiton lúc thanh bình, là một nhà ái quốc thượng thặng. Thở ra lửa trận, nói ra sấm sét. Chàng lợi dụng mọi hoàn cảnh để cổ võ những đức tính anh hùng của người chiến sĩ yêu nước. Nghe chàng nói, khán giả có ấn tượng như chàng đang tuyên chiến với các cường quốc trên thế giới. Nhưng đến khi phải thi hành lệnh quân dịch, người ta thấy chàng đột nhiên bước đi khập khiễng, tay chống gậy, chân thì băng bó, trông thảm não vô cùng.
Biết rõ những bí ẩn của chàng, ông Photion trợn mắt nói: “Aristogiton đã làm một người què lại còn hèn nhát”.
- Có một người nêu ý kiến rằng: Nếu phải chọn một trong hai điều, một là cứu rỗi một triết nhân, chỉ biết mình là tất cả, kiêu ngạo, khoe khoang về kiến thức của mình. Hai là phải cứu rỗi một trăm người tội lỗi, điếm đàng, thì hiển nhiên nên chọn điều thứ hai.
Tại sao vậy ? Vì ở trần gian, không có gì khó bằng khuất phục một người trí thức kiêu ngạo, tâm hồn họ đầy cái tôi của mình thì chẳng còn chỗ nào cho Thiên Chúa len vào được. Cũng như một chiếc bình đầy nước thì không thể đồng thời chứa đầy dầu hôi. Đối với tâm hồn, tình trạng cũng chẳng khác gì, Thiên Chúa chỉ ban chân lý và sự sống của Ngài cho những ai trống rỗng với chính mình. Do đó, chúng ta phải tạo một khoảng trống trong tâm hồn để có thể chứa ơn thánh.
- Mọi quyền hành đều bắt nguồn bởi Thiên Chúa và phải trở về Thiên Chúa. Nếu có ai làm thầy, làm người lãnh đạo thì vì họ được chia sẻ quyền làm thầy của Đức Kitô, họ phải nêu gương trước. Nhưng trong thực tế, vẫn còn đó đây những vị này vị nọ nói thuyết thì hay nhưng lại tự chuẩn cho mình; dạy dỗ người ta nhưng chính mình lại không giữ, thậm chí còn tệ hơn – ngôn hành bất nhất. Lại nữa, chỉ thấy người khác phạm luật và trách mắng họ, nhưng thực tế thì “suy bụng ta ra bụng người” – chính mình còn bê bối hơn cả những gì mình trách người… Xin Chúa giúp chúng ta, biết dùng chính hành động làm cho lời nói có giá trị, nghĩa là khi muốn ai giữ luật, thì mình phải làm gương trước – ngôn hành như nhất.
- Truyện: Bé cái lầm
Có một người đi dạo đến nơi hành hương. Vì quá mệt nhọc, ông ngồi nghỉ chân trên một bệ đá. Ông hết sức ngạc nhiên và rồi tỏ ra hãnh diện sung sướng khi thấy nhiều người đi qua trước mặt ông, họ đã ngả mũ cúi chào.
Trong khi còn đang nghĩ ngợi, thắc mắc, thì cũng có một bà già đến trước mặt ông. Sau khi cúi chào, bà đã ngước nhìn lên và miệng lâm râm nhiều lời mà ông không thể nghe rõ.
Thế rồi bà ta tiếp tục đi như những người khác. Lúc ấy ông mới quay lưng lại và nhìn lên theo hướng bà kia đã nhìn. Ông nhận ra ngay sau lưng và phía trên đầu ông có một cây thánh giá đã được dựng lên ở đó. Và ông xấu hổ bỏ đi nơi khác.
2. Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
CHỨNG NHÂN HƠN THẦY DẠY
Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói đến nhóm Kinh sư và người Pharisêu. Chúng ta thử tìm hiểu xem họ là ai? Họ dạy những gì và cách sống của họ ra sao, để có thể hiểu và sống theo Lời Chúa căn dặn: “Điều họ dạy anh hãy làm, còn điều họ làm anh em chớ làm theo…”
Trước tiên, các Kinh sư là những chuyên viên Kinh thánh, họ là những tiến sĩ giải thích Luật Môsê, họ là những tư tế đại diện cho dân chúng lo việc tế tự trong Đền thờ Do thái Giáo.
Còn người Pharisêu là những tín hữu Do thái giữ luật Môsê một cách ghiêm ngặt, họ có vị trí quan trọng trong đời sống chính trị và Tôn giáo Do thái, họ rất có uy tín trong dân.
Nếu chỉ xét bề ngoài thì hai nhóm này gồm những người học thức, có vị trí cao trong Tôn giáo cũng như trong xã hội. Thế nhưng, cách sống của họ thì thật là đáng trách đúng như Chúa Giêsu tố cảnh cáo:“Họ nói mà không làm, họ chất những gánh nặng lên vai người ta còn chính họ thì không đụng ngón tay lay thử. Nhiều lần Chúa Giêsu gọi họ là mồ mả tô vôi, Ngài đả phá cách sống giả dối của họ: Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong Hội đường, thích người ta gọi là Thầy… Trong khi đó họ lại khinh chê tha nhân, coi đồng bào của mình là:“đám dân đen, thứ người không biết lề luật, quân bị nguyền rủa”. Đó là những đặc điểm dễ thấy tính giả hình của họ mà căn nguyên của những biểu hiện đó xuất phát từ lòng kiêu ngạo. Vì thế, Chúa Giêsu dạy các môn đệ: “Điều họ nói anh hãy làm, hãy giữ, còn điều họ làm anh em chớ có làm theo”.
Chớ để ai gọi mình là Thầy, đừng để ai gọi mình là Cha, không để ai tôn mình là người Lãnh đạo. Bởi lẽ, ba chức vị: là Cha, là Thầy, là người Lãnh đạo chỉ duy nơi Thiên Chúa mới có tuyệt đối. Do đó, không được tiếm ngôi vị của Thiên Chúa như các Kinh sư người Pharisêu đã làm. Chỉ trong Chúa Kitô qua Bí tích Thánh tẩy, chúng ta mới được tham dự vào chức vị là Cha, là Thầy và là người Lãnh đạo tương ứng với chức vụ: tư tế, ngôn sứ, vương đế.
Vì thế, mỗi khi chúng ta cử hành phụng vụ Thánh lễ, Các Giờ Kinh hay cầu nguyện, hi sinh… là chúng ta đang thi hành chức vụ tư tế cùng với Chúa Kitô, trong Chúa Kitô, và với Chúa Kitô.Chúng ta là ngôn sứ cho Chúa, khi sống theo Lời Chúa dạy, và loan báoTin Mừng cho mọi người, bằng lời nói và những việc làm bác ái hằng ngày. Chúng ta thi hành chức vụ vương đế khi ý thức mình là con của Chúa, làm mọi sự cho sáng danh Chúa, bằng lòng để Chúa hành động, làm chủ, làm vua … ấy là luôn điều khiển đời sống mình theo đường lối yêu thương của Thiên Chúa.
Ba chức vị: tư tế, ngôn sứ, vương đế rất đỗi vinh quang của chính Chúa Kitô được ban cho chúng ta. Đây là là hồng ân cao cả của người con cái Chúa. Thế nên, chúng ta có nghĩa vụ làm cho mọi người nhận biết Thiên Chúa là tình yêu bằng những việc làm cụ thể hằng ngày. Đừng để người ngoại có cớ mỉa mai chúng ta: “Tôi tin đạo, chứ không tin người có đạo”. Vì con người ngày nay cần những chứng nhân hơn thầy dạy. Đức Cha Fulton Sheen kể lại hai câu chuyện như sau:
“Tại Nam Tư, trong một lần giúp lễ, một cậu bé đã vô tình đánh rơi lọ nước. Vị Linh mục tức giận tát cậu bé và thét lên: “Cút đi và đừng bao giờ trở lại đây nữa”. Câu bé đó đã không bao giờ trở lại nhà thờ nữa, bởi vì sau này cậu đã trở thành nhà lãnh đạo nước Nam Tư xã hội chủ nghĩa. Cậu bé ấy tên là Titô.
Tôi còn nhớ, tôi cũng là một cậu bé giúp lễ tại nhà thờ chính tòa, lúc đó tôi lên bảy tuổi. Trong một phiên giúp lễ tôi cũng đánh rơi lọ rượu. Tôi sợ tưởng đến chết được, vì mấy cậu bé giúp lễ chúng tôi cứ nghĩ Đức Cha là người rất nghiêm khắc. Thế nhưng sau Thánh lễ, Ngài gọi tôi lại và hỏi: “Lớn lên con sẽ vào học ở trường nào? Con có bao giờ nghe nói Louvain không?” Tôi đáp: “Thưa Đức Cha chưa”. Ngài nói: “Vậy thì con về nói với mẹ rằng khi lớn lên con sẽ vào học tại trường đại học Louvain”. Tôi không ngờ rằng hai năm sau khi chịu chức Linh mục, tôi đã ngồi trên chuyến xe lửa trực chỉ Louvain.Cũng một biến cố, nhưng tôi đã đi về một hướng này, còn Titô đi về hướng ngược lại”(Trích “Chờ đợi Chúa”).
Trong quyển Tự Thuật, Mahatma Gandhi, cha đẻ của chủ trương tranh đấu bất bạo động và là người đã giải phóng Ấn Ðộ khỏi ách thống trị của người Anh, đã kể lại rằng: Trong những ngày còn làm sinh viên, ông đã đi lại khá nhiều tại Nam Phi. Ông đã say mê đọc kinh thánh và vô cùng cảm kích về bài giảng trên núi của Chúa Giêsu. Chính Tám Mối Phúc Thực đã gợi hứng cho chủ trương tranh đấu bất bạo động của ông.
Mahatta Gandhi xác tín rằng Kitô giáo là giải pháp cho mối ung nhọt phân chia giai cấp đang đục khoét xã hội Ấn từ bao thế kỷ qua. Ông đã nghĩ đến chuyện gia nhập vào Giáo Hội. Thế nhưng, ngày nọ, khi đến nhà thờ để dự lễ và đón nhận một vài lời chỉ dẫn, ông đã thất vọng: Ông vừa vào đến cửa nhà thờ thì những người da trắng chận ông lại và nói với ông rằng nếu ông muốn tham dự thánh lễ thì hãy tìm đến một nhà thờ dành riêng cho người da màu.Mahatma Gandhi đã ra khỏi nhà thờ và ông đã không bao giờ trở lại bất cứ nhà thờ nào nữa.
Những câu chuyện lịch sử trên đây rất đáng để cho chúng ta suy nghĩ, rằng: Những lời nói và việc làm tốt hoặc xấu, vô tình hay hữu ý của kitô hữu chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng rất lớn tới những người xung quanh. Khi kitô hữu hành động theo Giáo huấn Tin Mừng sẽ giúp người ta đến gần Chúa. Ngược lại, kitô hữu sống theo kiểu thế gian thì đã nên cớ cho người ta xa Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con luôn biết sống chân thành lắng nghe và thực hành Lời Chúa để nên những chứng nhân tình yêu của Chúa giữa trần gian. Amen.