“Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió,
nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu”.
(Ga 3,8)

BÀI ĐỌC I: Cv 4, 32-37
“Họ một lòng một ý với nhau”.

Trích sách Tông đồ Công vụ.
Bấy giờ tất cả đoàn tín hữu đông đảo đều đồng tâm nhất trí. Chẳng ai kể của gì mình có là của riêng, song để mọi sự làm của chung. Các tông đồ dùng quyền năng cao cả mà làm chứng việc Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta sống lại. Hết thảy đều được mến chuộng. Vì thế, trong các tín hữu, không có ai phải túng thiếu. Vì những người có ruộng nương nhà cửa đều bán đi và bán được bao nhiêu tiền thì đem đặt dưới chân các tông đồ. Và người ta phân phát cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu của họ. Ông Giuse, người mà các tông đồ đặt tên là Barnabê (nghĩa là con sự an ủi), một thầy tư tế, quê ở Cyprô, có một thửa ruộng, ông bán đi và đem tiền đặt dưới chân các tông đồ.

ĐÁP CA: Tv 92, 1ab. 1c-2. 5
Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai

Xướng:
1) Chúa làm vua, Ngài đã mặc thiên oai. Chúa đã vận uy quyền, Ngài đã thắt long đai. – Đáp.

2) Và Ngài giữ vững địa cầu, nó sẽ không còn lung lay. Ngai báu của Ngài thiết lập từ muôn thuở, tự đời đời vẫn có Chúa. – Đáp.

3) Lời chứng bảo của Ngài rất đáng tin, lạy Chúa, sự thánh thiện là của riêng nhà Ngài, cho tới muôn muôn ngàn thuở. – Đáp.

TIN MỪNG: Ga 3,7b-15
7b Các ông cần phải được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên. 8 Gió muốn thổi đâu thì thổi ; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy.”
9 Ông Ni-cô-đê-mô hỏi Người: “Làm sao những chuyện ấy có thể xảy ra được?” 10 Đức Giê-su đáp: “Ông là bậc thầy trong dân Ít-ra-en, mà lại không biết những chuyện ấy! 11 Thật, tôi bảo thật ông: chúng tôi nói những điều chúng tôi biết, chúng tôi làm chứng về những điều chúng tôi đã thấy, nhưng các ông không nhận lời chứng của chúng tôi. 12 Nếu tôi nói với các ông về những chuyện dưới đất mà các ông còn không tin, thì giả như tôi nói với các ông về những chuyện trên trời, làm sao các ông tin được?” 13 Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. 14 Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, 15 để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.

 

SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa

‘LỘT XÁC’

“… cần phải được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên.” (Ga 3,7b)

Suy niệm: Loài rắn theo chu kỳ, tự động lột lớp da. Bộ da của rắn giống như bộ quần áo sau một thời gian sử dụng trở nên vừa chật hẹp vừa dơ bẩn, cũ nát, nếu không lột bỏ thì chẳng những rắn không thể tăng trưởng mà còn có thể bị nguy hiểm tính mạng vì các loài ký sinh trùng phát triển nơi lớp vảy của da rắn. Thật là sai lầm nếu nghĩ rằng rắn chỉ lột bỏ lớp vảy đã già cỗi bên ngoài mà thôi. Trước khi xé bỏ lớp vỏ cũ để trườn ra ngoài chúng đã phải “đổi mới” từ bên trong. Để có thể vào Nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải sinh ra một lần nữa. Trong lĩnh vực tâm linh “lột xác” càng không phải là vấn đề xé bỏ quần áo cũ để may mặc y phục mới, mà là cởi bỏ nếp sống cũ để mặc lấy con người mới tốt lành, thánh thiện. Bí tích Thánh Tẩy giúp ta thực hiện cuộc “lột xác” ấy: nhờ sự chết và sống lại của Chúa Kitô, chúng ta chết đi cho tội và tiếp nhận sự sống phục sinh từ nơi Ngài.

Mời Bạn: Chúng ta khó lột bỏ những tính hư tật xấu của mình do xu hướng thường tình “tốt khoe, xấu che” của chúng ta. Hoặc có khi chúng ta muốn lột bỏ chúng lắm nhưng lực bất tòng tâm. Việc chừa bỏ tội lỗi không thể chỉ do sức riêng mà còn phải nhờ ơn của Chúa Thánh Thần. Chỉ có những ai sinh bởi Thần Khí thì mới được vào Nước Trời. Bạn hãy sẵn sàng mở lòng ra cho Chúa Thánh Thần để lột bỏ tội lỗi mới mong được sống muôn đời.

Sống Lời Chúa: Quyết tâm chừa bỏ một thói xấu dai dẳng nơi bạn.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho chúng con can đảm  lột bỏ những thói hư tật xấu, và biết cởi mở lòng mình ra để Thánh Thần Chúa làm cho con người con ra mới, tinh tuyền và thánh thiện.

 

B/ Lm. Phaolô Vũ Đức Vượng

THỨ BA TUẦN 2 PS

 “Như ông Môisen đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng phải giương cao như vậy.

Trên núi Sọ, Đức Giêsu lại rao giảng Tám Mối Phúc Thật, một bài giảng hùng hồn, không chỉ bằng tám câu nói nổi tiếng, mà còn thực hiện trọn vẹn bài giảng đó cách sống động qua thái độ, qua hành vi phó thác và khoan dung của mình. Bệ giảng của Ngài không còn là mũi thuyền ven hồ hay cỏ dại ven đường, nhưng là thập giá, hình khổ dành cho tử tội. Thanh dọc của cây thập tự diễn tả tâm tình phó thác nơi Chúa Cha. Thanh ngang của thập giá diễn tả tâm tình khoan dung với con người. Hai tâm tình yêu mến ấy đã nối kết con người với Thiên Chúa và với nhau, keo sơn gắn bó. Núi Sọ, theo địa lý chỉ là một ngọn đồi thấp, nhưng đã giương cao Thiên-Chúa-làm-người cho mọi người ở mọi nơi, và qua mọi thời có thể nhìn ngắm, xúc động, tin tưởng, yêu mến, và nhờ vậy, có được sự sống đời đời. “Như ông Môisen đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng phải giương cao như vậy.”

Người Kitô hữu quý chuộng cuộc sống ở trần thế này, nhưng chúng ta hiểu tính chất mau qua và tương đối của nó. Như Đức Giêsu, chúng ta cũng phải đi qua cuộc sống đời này, nếm đủ mọi mùi vị của phận người, chịu đựng mọi khó khăn thách đố, trước khi về với điểm đến chung cục là cuộc sống đời sau.

Đức Giêsu chịu giương cao trên thập giá để đem lại sự sống đời đời, hạnh phúc muôn thuở cho chúng ta. Đức Giêsu được giương cao khi bị treo trên thập giá, được giương cao khi được Chúa Cha phục sinh, và được giương cao khi được Cha đưa về trời.

Đấng từ trời xuống nay đã lên trời, và lôi kéo chúng ta lên với Ngài. Vậy thì chúng ta phải sống làm sao để thoát khỏi sức kéo xuống của vật chất? Phải sống thế nào để chúng ta có thể nhẹ nhàng bay lên và có thể kéo thế giới quanh ta bay lên theo.

 

C/ Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

NHỮNG HOA QUẢ DỒI DÀO

Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Ba Tuần 2 Phục Sinh này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa giúp chúng ta biết lấy cuộc đời mà bày tỏ cho mọi người thấy: sức sống của Đức Kitô phục sinh, Đấng chiến thắng tử thần; giờ đây, chúng ta đã nhận lãnh mầm sống Người ban tặng, thì xin cho chúng ta biết mang lại những hoa quả dồi dào.

Những hoa quả dồi dào có được nhờ lòng trung thành, mà trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Khải Huyền đã kêu gọi: Hãy trung thành cho đến chết, và Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống. Dù phải chết, ngươi hãy phấn đấu cho sự thật, và ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa sẽ bênh vực ngươi. Ai thắng thì không hề bị cái chết thứ hai làm hại.

Những hoa quả dồi dào có được nhờ sống thuận hòa bác ái với nhau, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Phungienxiô cũng cùng chung tâm tình với thánh Phaolô khi kêu gọi: Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau. Anh em hãy thiết tha duy trì sự hợp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hoà gắn bó với nhau. Chỉ có một thân thể, một Thần Khí.

Những hoa quả dồi dào có được nhờ sự hiệp nhất yêu thương, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Công Vụ Tông Đồ kể lại: Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung.

Những hoa quả dồi dào có được nhờ lòng tin tưởng đặt nơi Thiên Chúa, như trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 92, vịnh gia đã cho thấy: Chúa là Vua hiển trị, Chúa mặc oai phong tựa cẩm bào. Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu không lay chuyển. Ngai vàng Chúa kiên cố tự ngàn xưa: Ngài hiện hữu tự muôn ngàn đời.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Con Người sẽ phải được giương cao, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Trong bài Tin Mừng, thánh Gioan tường thuật lại cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và ông Nicôđêmô: Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Hoa quả của ơn cứu độ có được từ trái của cây thập giá: khi Đức Giêsu bị giương cao. Qua đau khổ của thập giá, ắt sẽ đến vinh quang, đó là quy luật của ơn cứu độ. Những hoa quả dồi dào có được phải kinh qua thử thách của lòng trung thành: tuân giữ những gì Chúa dạy; sống hòa thuận, bác ái, trong tình hiệp nhất yêu thương; nhất là, hoàn toàn đặt niềm tin tưởng, cậy trông, phó thác vào Chúa. Ước gì chúng ta luôn biết chiêm ngắm Đấng chịu giương cao trên thập giá vì chúng ta, để chúng ta được nên đồng hình đồng dạng với Đấng đã yêu thương và thí mạng vì chúng ta. Ước gì được như thế!

 

D/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist

KITÔ HỮU SỐNG TIN MỪNG

Sách Công Vụ Tông Đồ cho chúng ta biết về đời sống Hội Thánh thời sơ khai. Trong đó, các thành viên đầu tiên là người Do Thái, gồm có 12 tông đồ và 72 môn đệ được chính Chúa Giêsu tuyển chọ huấn luyện và sai đi loan báo Tin Mừng. Sau khi sống lại, Chúa ban Thánh Thần cho các môn đệ, làm cho các ông, từ những con người chài lưới quê mùa ít học, nhát đảm bỗng trở nên thông thái, làm nhiều dấu lạ, can đảm làm chứng về Chúa Kitô phục sinh, thu phục nhiều người tin Chúa, làm nên cộng đoàn các tín hữu.

Điều đáng lưu ý ở đây là: các tín hữu đông đảo mà hợp nhất chỉ có “một lòng, một ý”, họ để những gì mình có làm của chung; đất đai tài sản họ bán đi, phân phát cho ai nấy tùy theo nhu cầu. Bởi vậy, mà không ai trong cộng đoàn phải thiếu thốn. Đó là một đời sống đẹp thấm đẫm Tin Mừng, một đời sống tràn đầy đức Tin Cậy Mến. Chỉ khi sống các nhân đức này, người ta mới có thể quảng đại sống cho Chúa và cho tha nhân.

Cuộc sống của Hội Thánh sơ khai, rõ ràng tương phải với xã hội chúng ta đang sống. Một xã hội có dư thừa của cải, nhưng lại thiếu thốn tình thương. Chẳng vậy, mà vẫn còn những Ladarô nghèo khổ nằm chết ngay trước mặt những người giàu có. Một xã hội bất công, bạo hành, khủng bố lan tràn: trong gia đình có những vợ chồng bất trung, con cái hắt hủy bạc đãi cha mẹ, trong học đường lứa tuổi đẹp nhất của đời người, mà lại thấy cảnh đánh hội đồng, bạn bè đối xử với nhau như xã hội đen.

Là kitô hữu sống trong một môi trường như vậy, chúng ta được mời gọi trở nên men mối, biến đổi ướp mặn đời bằng cuộc sống “một lòng, một ý” với nhau, chia sẻ của cải, tình thương và niềm hy vọng cho nhau. Đó là sứ điệp sách Công Vụ Tông Đồ muốn nhắn gửi đến chúng ta.

Còn trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô về điều kiện để được thấy và được vào Nước Thiên Chúa, ấy là phải được “tái sinh”. Dĩ nhiên “tái sinh” không phải là chui vào lòng mẹ, rồi sinh ra một lần nữa. Nhưng là “tái sinh” nhờ vào quyền năng Chúa Thánh Thần: “tái sinh nhờ bởi ơn trên”.

Để được tái sinh, cần chấp nhận chết đi, chết đi cho tội lỗi, chết đi cho những thói hư tật xấu. Đó là điều rất khó với sức con người, chúng ta không thể tự tái sinh mình được mà phải nhờ “ơn trên” nghĩa là nhờ vào ơn thánh Chúa, nhờ Chúa Thánh Thần, nhờ mình máu thánh Chúa, nhờ các bí tích thánh hóa.

Ông Nicôđêmô là bậc thầy thông thái thánh thiện mà còn phải tìm đến nhờ Đức Giêsu khai tâm mở trí thì huống hồ là chúng ta. Chúng ta cần được Chúa soi tâm, mở trí và dẫn bước trên hành trình đức tin.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết khiêm tốn nhận ra con cần được Chúa soi dẫn, hầu có thế sống thực tại Nước Trời, ngay khi còn tại thế. Amen.

 

E/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

TIẾP TỤC NÓI VỀ VIỆC TÁI SINH 

Bài Tin mừng hôm nay tiếp tục kể lại cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa Đức Giêsu và ông Nicôđêmô. Ông đã để ý nghe Chúa giảng và được thấy phép lạ Chúa làm, ông bắt đầu tin Chúa, ông có nhiều thắc mắc, và hôm nay ông tới gặp Chúa để xin Chúa giải đáp. Chúa cho ông biết: muốn được tái sinh để được vào Nước trời thì:

Phải nhờ tác động của Thánh Linh: “Gió muốn thổi đâu thì thổi… mọi kẻ sinh bởi Thánh Linh cũng vậy”.

Nhờ tin vào Đức Giêsu: “Không ai lên trời được ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời”.

Đức Giêsu cho ông biết: “Nếu ông muốn vào Nước trời, ông phải tái sinh, phải sinh lại trong nước và Thánh Thần”. Dĩ nhiên Chúa không bảo ông phải chui vào lòng mẹ mà sinh ra lần nữa, Chúa có ý bảo ông phải lãnh nhận phép Rửa tội. Phép rửa tội là bí tích tái sinh làm cho chúng ta được trở thành con Thiên Chúa, tức là qua dòng nước đổ trên đầu, đó là dấu hiệu của Chúa Thánh Thần hoạt động bên trong. Nói rõ hơn, nhờ bí tích rửa tội, Chúa Thánh Thần đến với linh hồn chúng ta, Ngài cải hoá và đổi mới con người chúng ta.

Theo Tin mừng của thánh Gioan, chúng ta có thể cắt nghĩa chữ “tái sinh” như sau: tái sinh có nghĩa là người gia nhập Giáo hội Chúa qua bí tích rửa tội mà vẫn giữ nguyên bản ngã của mình. Bản chất con người đó không hề bị tiêu tan, nhưng được chữa lành và bồi bổ trong ân lộc của Ba Ngôi Thiên Chúa, và cuối đời họ được sống viên mãn với chính Thiên Chúa Ba Ngôi.

Cho nên chữ tái sinh “bởi trên cao”có nghĩa là sinh lại bởi Thiên Chúa, trở nên con cái Thiên Chúa, chấp nhận nguyên tắc sống siêu nhiên, một bản tính mới như nâng hẳn chúng ta lên, vượt khỏi điều kiện tầm thường nhân loại: Từ thân phận tội lỗi đáng trầm luân mà được nâng lên làm con Thiên Chúa cùng được thừa hưởng gia nghiệp Nước trời.

Được sống muôn đời, đó là điều quan trọng nhất, đó là mục tiêu cuối cùng của con người, đó là một hồng ân cần được con người khiêm tốn đón nhận, chứ không phải là đối tượng để hiểu biết suông mà thôi. Trong cuộc đối thoại, chúng ta thấy Đức Giêsu không những mời gọi ông Nicôđêmô nâng tâm hồn mình lên, hãy để cho Thánh Thần thanh tẩy để có thể nhìn thấy và bước vào trong Nước Thiên Chúa.

Hơn nữa, cũng trong cuộc đối thoại này, chúng ta có thể ghi nhận một mạc khải quan trọng khác nữa, đó là Chúa Thánh Thần chỉ được ban xuống cho con người nhờ qua và sau cuộc vượt qua của Đức Giêsu, qua và sau cái chết, sự Phục sinh của Chúa. Cùng với ông Nicôđêmô, chúng ta hãy đến với Đức Giêsu, để cho Ngài dạy chúng ta biết về Thiên Chúa Cha và đồng thời sẵn sàng lãnh nhận Chúa Thánh Thần.

“Như ông Maisen đã giương cao con rắn trong sa mạc…”

Để tin nhận Đức Giêsu, con người không chỉ phải thấy những việc làm cả thể của Ngài, mà còn phải nhìn Ngài trên thập giá nữa. Đây là cái nhìn mà Đức Giêsu ám chỉ đền khi nhắc lại sự kiện Maisen treo một con rắn đồng trong sa mạc, để những ai bị rắn cắn nhìn lên sẽ được chữa lành. Với hình ảnh con rắn đồng chịu treo lên cao để được nhìn ngắm, Đức Giêsu ám chỉ đến cái chết của Ngài trên thập giá. Như vậy, biết Ngài và tin nhận Ngài là có thể nhận ra vinh quang của Ngài khi Ngài bị treo trên thập giá, đó là chân dung đích thực của Ngài mà con người cần phải nhận ra và chiêm ngắm (Mỗi ngày một tin vui).

Tái sinh chẳng khác gì một quy luật đòi buộc con người phải thoát ra khỏi con người cũ của mình. Không chịu thoát ra, nghĩa là không đi vào con đường tự huỷ thì không thể có việc tái sinh. Hay nói khác đi, tái sinh là cởi bỏ con người cũ, là trở thành như trẻ thơ, là hoàn toàn chấp nhận lệ thuộc vào Thiên Chúa, là khước từ tự cứu lấy mình bằng những cố gắng, những lý lẽ và phương tiện riêng của mình.

Truyện: Câu chuyện hai hạt giống

Có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong một mảnh đất màu mỡ. Hạt giống thứ nhất tâm sự: “Tôi muốn lớn lên, tôi muốn cho rễ của tôi bén sâu dưới lòng đất và cho mầm sống của tôi vượt qua cái lớp vỏ cứng cỏi của mặt đất… Tôi muốn phô trương những cái nụ của tôi như những biểu ngữ báo hiệu mùa xuân đang tới. Tôi muốn đón nhận sự ấm áp của mặt trời trên tôi và hứng lấy những lời chúc lành của những giọt sương mai trên những cành hoa của tôi”.

Thế là hạt giống đó bắt đầu triển nở.

Hạt giống thứ hai nói: “Tôi rất lo sợ, nếu rễ của tôi đâm sâu, tôi không biết sẽ phải gặp những điều gì dưới lòng đất tối tăm kia. Nếu cố gắng trồi lên mặt đất cứng cỏi kia, sợ rằng mầm non của tôi sẽ bị gãy dập… Nếu nụ của tôi nở, có thể ốc sên sẽ đến ăn, và nếu tôi nở hoa, có thể sẽ bị bàn tay của một em bé tinh nghịch nhổ lên khỏi mặt đất. Thôi, tốt hơn hết là tôi chờ cho đến khi nào thật an toàn, tôi mới bắt đầu triển nở”.

Và hạt giống đó tiếp tục chờ.

 Một chú gà mái đang vô tử bới đất tìm mồi, thấy hạt giống ở gần đấy, nó liền mổ ăn một cách ngon lành và thế là hết đời một hạt giống nhát đảm.

 David L. Weatherford đã nói một câu hay: “Khi đối mặt với một thử thách nào đó, hãy tìm cách vượt qua nó chứ đừng tìm lối thoát”. Vì người nào càng trốn tránh thử thách, thì chính thử thách lớn nhất của con người là sự nhát đảm sẽ đè bẹp họ.