“Tôi chính là Mục Tử nhân lành.
Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi”. (Ga 10,14)
BÀI ĐỌC I: Cv 11, 1-18
“Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn ăn năn sám hối để được sống”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, các tông đồ và anh em ở Giuđêa nghe tin rằng cả dân ngoại cũng đã đón nhận lời Thiên Chúa. Khi Phêrô lên Giêrusalem, các người đã chịu cắt bì trách móc người rằng: “Tại sao ngài vào nhà những kẻ không chịu cắt bì và ăn uống với họ ?” Phêrô trình bày cho họ sự việc từ đầu đến cuối theo thứ tự sau đây: “Tôi đang ở tại thành Gióp-pê, lúc cầu nguyện, trong một thị kiến, tôi thấy một vật gì giống chiếc khăn lớn túm bốn góc, từ trời thả xuống sát bên tôi. Tôi chăm chú nhìn và thấy những con vật bốn chân, những mãnh thú, rắn rết và chim trời. Tôi nghe tiếng phán bảo tôi: ‘Phêrô, hãy chỗi dậy giết mà ăn’. Tôi thưa: ‘Lạy Chúa, không được, vì con không khi nào bỏ vào miệng con những đồ dơ nhớp hay bẩn thỉu’. Tiếng từ trời nói lần thứ hai: ‘Vật gì Thiên Chúa cho là sạch, ngươi đừng nói là dơ nhớp’. Ba lần xảy ra như thế, và mọi sự lại được kéo lên trời.
“Và ngay lúc đó, ba người từ Cêsarêa được sai đến nhà tôi ở. Thánh Thần truyền dạy tôi đừng ngần ngại đi với họ. Sáu anh em cùng đi với tôi, và chúng tôi vào nhà một người. Anh thuật lại cho chúng tôi biết: anh đã thấy thiên thần hiện ra thế nào; thiên thần đứng trong nhà anh và nói với anh rằng: ‘Hãy sai người đến Gióp-pê tìm Simon có tên là Phêrô; người sẽ dạy ngươi những lời có sức làm cho ngươi và cả nhà ngươi được cứu độ’. Lúc tôi bắt đầu nói, Thánh Thần ngự xuống trên họ như ngự trên chúng ta lúc ban đầu. Bấy giờ tôi nhớ lại lời Chúa phán: ‘Gioan đã rửa bằng nước, còn các con, các con sẽ được rửa bằng Thánh Thần’. Vậy, nếu Thiên Chúa ban cho họ cũng một ơn như đã ban cho chúng ta, là những kẻ tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà có thể ngăn cản Thiên Chúa ?”
Nghe những lời ấy, họ thinh lặng và ca tụng Thiên Chúa rằng: “Vậy ra Thiên Chúa cũng ban cho dân ngoại ơn ăn năn sám hối để được sống”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 41, 2. 3; 42, 3. 4
Đáp: Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống (Tv 41, 3a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn con khát Chúa, Chúa Trời ôi. – Đáp.
2) Hồn con khát Chúa Trời, Chúa Trời hằng sống; ngày nào con được tìm về ra mắt Chúa Trời! – Đáp.
3) Xin chiếu giãi quang minh và chân thực của Chúa, để những điều đó hướng dẫn con, đưa con lên núi thánh và cung lâu của Ngài. – Đáp.
4) Con sẽ tiến tới bàn thờ Thiên Chúa, đến cùng Thiên Chúa làm cho con được hoan hỉ mừng vui. Với cây cầm thụ, con sẽ ca ngợi Chúa, ôi Chúa là Thiên Chúa của con. – Đáp.
Tin Mừng: Ga 10, 1-10
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Gio-an.
Khi ấy, Chúa Giê-su phán rằng: “Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ”.
Chúa Giê-su phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giê-su nói thêm: “Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào”.
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
KẺ QUEN NGƯỜI LẠ LÀ AI?
“Chiên không nhận biết tiếng người lạ.” (Ga 10,5)
Suy niệm: Người quen mà Chúa muốn nói đến là mục tử của đàn chiên; còn người lạ là kẻ cướp, kẻ ăn trộm chiên về làm thịt. Mục tử thương chiên như con cái; người lạ coi chiên như đồ vật để mua bán trao đổi. Là con, chiên nhận ra mùi mục tử vì nhiều lần được bồng, vác chiên lên vai về ràn. Trái lại, bị coi là đồ vật, chiên không nhận biết tiếng và mặt người, vì cả hai đều là kẻ xa lạ. Mục tử sẵn lòng hy sinh thời giờ, sự quan tâm, lòng yêu mến chăm sóc đàn chiên, thậm chí phải hy sinh bảo vệ chiên trước thú dữ, kẻ cướp. Đang khi ấy, người lạ chỉ có một mục tiêu là dùng chiên như phương tiện thụ hưởng, làm lợi cho mình. Mục tử là Chúa Giê-su, kẻ trộm là người Pha-ri-sêu, kinh sư, thích mặc áo lông chiên, ăn thịt chiên nhưng lại để đàn chiên là dân chúng bơ vơ vất vưởng như không có người chăn dắt.
Mời Bạn: Chương 10 Tin Mừng theo thánh Gio-an nói về Chúa Giê-su, Mục tử nhân lành. Có thể bạn nghĩ ngay đến các mục tử hôm nay, thầm mong các vị là mục tử nhân lành, theo mẫu gương Thầy mình. Dân chúng nói chung và giáo dân trong các xứ đạo nói riêng, được chăm sóc, quan tâm đầu tư để tăng trưởng hay không tùy nơi tấm lòng các vị mục tử ấy. Nếu là giáo dân, bạn hãy nghe theo tiếng các vị mục tử của mình.
Sống Lời Chúa: Tin tưởng vào Lời Chúa: “Tôi đến cho chiên được sống, và sống dồi dào,” tôi tiếp tục cầu nguyện, nâng đỡ cho các linh mục đang phục vụ giữa dân Chúa.
Cầu nguyện: Sacerdos victima (“Linh mục tế vật”). Xin cho các mục tử của chúng con ngày càng trở nên hy tế xứng hợp với của lễ các ngài dâng trên bàn thờ mỗi ngày. Amen.
B/ Lm. Phaolô Vũ Đức Vượng
Ga 10, 1-10
“Ta là cửa chuồng chiên.”
Chúng ta quen thuộc với hình ảnh Chúa Giêsu là mục tử nhân lành. Nhưng hôm nay Thánh Gioan cho chúng ta một hình ảnh khác đi kèm hình ảnh mục tử tốt lành: Ta là cửa chuồng chiên. Cửa là nơi ra vào. Ở đây Chúa Giêsu muốn nói Ngài chính là cánh cửa, chúng ta phải đi qua cửa Giêsu mới gặp được Thiên Chúa, gặp được ơn cứu độ. Không qua cửa Giêsu, không ai được cứu độ.
Ai không qua cửa mà vào thì là kẻ trộm. Chúng ta thử kiểm soát xem loại “kẻ trộm” nào đang rình rập chung quanh, những thứ làm cho chúng ta mất nhân cách, tác hại đức tin, mất thì giờ vô ích. Nhận diện chúng, chắc hẳn chúng ta có phương cách đề phòng chúng?
Ngày nay, người ta đang ham thích những điều lạ hơn là tìm kiếm chân lý, điều lạ trong một số tác phẩm, một số chủ thuyết, một bộ phim, hay những tin giật gân, vô bổ và chẳng màng đến hậu quả, đó là niềm tin của mình vào Thiên Chúa đang bị “kẻ trộm” lấy mất. Nhiều khi chúng ta đang đi theo kẻ trộm chứ không đi theo chủ chiên.
Nếu Đức Giêsu là cửa cho mọi người đi vào, thì chúng ta, những môn đệ của Ngài, chúng ta cũng phải là cánh cửa mở rộng cho các anh chị em chúng ta ra vào. Phải biết tiếp nhận và giới thiệu Chúa cho mọi người để mọi người có thể qua cánh cửa là chúng ta để gặp được Chúa.
Chúng ta mở cửa khi biết lắng nghe mọi nguyện vọng, mọi tâm tư, những nỗi đau, những ưu phiền của những người đang sống cạnh chúng ta. Còn khi chúng ta tìm cách loại trừ người khác là chúng ta khép cửa lại, không muốn cho họ gia nhập đàn chiên của Chúa.
Ta là cửa cho chiên ra vào,
Ai qua Ta ra vào thì sẽ được cứu.
C/ Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
HƯỞNG PHÚC TRƯỜNG SINH
Qua Lời Tổng Nguyện của Thứ Hai Tuần 4 Phục Sinh này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Nhờ Con Chúa hạ mình xuống, Chúa đã nâng loài người sa ngã lên, xin Chúa rộng ban cho các tín hữu Chúa niềm vui thánh thiện này: Chúa đã thương cứu họ ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi, thì xin cũng cho họ được hưởng phúc trường sinh.
Hưởng phúc trường sinh là phần thưởng dành cho những ai đã chiến thắng, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Khải Huyền đã cho thấy: Cuộc chiến giữa các con thú và dân thánh diễn ra hết sức ác kiệt, đời sống đức tin cũng là một cuộc chiến, ai bền đỗ sẽ được cứu: Ai thắng sẽ được mặc áo trắng, Ta sẽ không xoá tên người ấy khỏi Sổ Trường Sinh. Ta sẽ nhận người ấy trước mặt Cha Ta và trước mặt các thiên thần của Người. Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.
Hưởng phúc trường sinh là nhờ nước và Thần Khí, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Baxiliô Cả đã nói: Chúa là Đấng ban cho ta sự sống, Người thiết lập cho chúng ta một giao ước, đó là Bí Tích Thánh Tẩy, hình ảnh tượng trưng cho cái chết và sự sống: nước là hình ảnh của cõi chết, Thần Khí là bảo chứng mang sự sống. Như vậy, ta thấy rõ điều ta tìm hiểu: Tại sao nước và Thần Khí lại liên kết với nhau? Thưa vì Bí Tích Thánh Tẩy nhắm hai mục tiêu: một là loại bỏ con người làm nô lệ tội lỗi, để sau này nó khỏi sinh hoa trái đưa tới cái chết, hai là sống bởi Thần Khí và sinh hoa trái là được trở nên thánh thiện.
Hưởng phúc trường sinh là ơn cứu độ phổ quát dành cho tất cả mọi người, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật lại việc thánh Phêrô phân trần với những người đang chất vấn ngài: Tôi vừa mới bắt đầu nói, thì Thánh Thần đã ngự xuống trên họ, như đã ngự xuống trên chúng ta lúc ban đầu. Tôi sực nhớ lại lời Chúa nói rằng: Ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì sẽ được rửa trong Thánh Thần. Vậy, nếu Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa?
Hưởng phúc trường sinh là nỗi khát khao, là niềm hy vọng chắc chắn dành cho những ai luôn đặt tin cậy nơi Chúa, như trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 41, vịnh gia đã cho thấy: Linh hồn con khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống. Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong, hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa. Con sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa, tới gặp Thiên Chúa, nguồn vui của lòng con. Con gảy đàn dâng câu cảm tạ, lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Chúa nói: Tôi chính là Mục Tử nhân lành, Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống, và sống dồi dào. Đức Kitô, Đấng Cứu Độ Duy Nhất là cửa duy nhất dẫn đến sự sống đời đời. Qua cửa Đức Kitô, là trải qua cái chết và phục sinh vinh hiển của Người. Từ chối bước qua ô cửa Giêsu, chúng ta không thể đến được đồng cỏ xanh tươi. Người mục tử nhân lành thì làm cho chiên được sống và sống dồi dào, còn, kẻ trộm chỉ cướp phá và giết hại. Ai thuộc về Đức Kitô thì nghe tiếng Đức Kitô, chúng ta không thể thuộc về Đức Kitô, mà lại, nghe theo tiếng của thế gian. Thế gian sẽ hứa hẹn cho chúng ta đủ mọi thứ, nhưng rồi, sẽ làm cho chúng ta thất vọng ê chề. Ước gì chúng ta luôn biết nghe theo tiếng của Đức Kitô, cho dẫu, có bị chê cười, bị nhạo báng. Ước gì được như thế!
D/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist
Chúa là mục tử nhân lành
Ở đất nước Do thái vào thời Chúa Giêsu, nghề chăn chiên rất phổ biến. Vì thế việc trông coi, giám sát, chăm sóc cho từng con vật trong đàn là rất cần thiết, nhiệm vụ này được trao phó hoàn toàn trong tay người mục tử. Chiên sẽ được an toàn, no nê, mạnh khỏe… nếu gặp được một vị mục tử nhân lành. Nghĩa là vị mục tử đó biết tận tình lo lắng quan tâm chăm sóc cho từng con chiên. Anh gần gũi thân thiết với con chiên đến nỗi biết rõ đặc điểm tính cách, và có thể gọi tên từng con một. Anh đi trước chiên để dẫn đường, tháo gỡ cạm bẫy hay chông gai dọc đường cho chiên được an toàn. Anh sẵn sàng đương đầu với kẻ cướp hay thú dữ, và chẳng tiếc hy sinh tính mạng để bảo vệ đàn chiên.
Chúa Giêsu đích thực là vị mục tử nhân lành như thế. Còn mỗi chúng ta là những con chiên trong đàn chiên của Chúa, được chính Chúa săn sóc dưỡng nuôi bằng chính Mình và Máu thánh Chúa. Chúa là mục tử nhân lành, Chúa biết rõ mỗi người chúng ta yếu đuối, dễ sa ngã và dễ đi hoang vào những đồng cỏ của thế gian đầy những cạm bẫy, cám dỗ… Cho nên Ngài đã dùng Lời của Ngài mà thức tỉnh chúng ta. Ngài đã thiết lập các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Giao hòa, nhằm chữa lành và thêm sức mạnh giúp chúng ta đủ sức tiến bước theo Chúa về nơi hạnh phúc bình an. Chúa là mục tử tốt lành vô cùng, đến nỗi chịu chết thay cho chúng ta, để chúng ta được sống và sống dồi dào.
Suy niệm về Chúa Giêsu là mục tử nhân lành. Chúng ta được mời gọi trở nên những vị mục tử nhân lành như Chúa, qua cung cách sống hiền hòa, nhân ái và quan tâm đến hết mọi người. Đồng thời, chúng ta hãy tĩnh lặng, hồi tâm để suy nghĩ về cung cách làm chiên của mình. Chắc hẳn, biết bao lần chúng ta đã ngỗ nghịch không thèm lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy, hay cố dập tắt tiếng Chúa nói trong lương tâm mình. Chúng ta chạy trốn, đi hoang vào trong bóng tối c tội lỗi và rồi nhiều lần chúng ta đã sa ngã, thất bại ê chề… Thế nhưng cho dù chúng ta có như thế nào, Chúa Giêsu vẫn cứ kêu gọi, vẫn cứ đi tìm vác và ta trên vai, vẫn cứ yêu thương, tha thứ, chờ đợi chúng ta quay về với Ngài.
Một câu chuyện lịch sử đã xảy ra tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha, có một tượng thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh tay trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ, nhưng cánh tay phải thì rời ra và đưa đến phía trước trong tư thế ban phép lành.
Người Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng thánh giá này như sau: Có một tội nhân đến xưng tội với cha xứ ngay dưới cây thánh giá ấy.
Tội nhân ra về, lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật ấy, không bao lâu, người đó sa ngã lại. Lần này, sau khi anh xưng thú tội, vị linh mục đe dọa: “Đây là lần cuối cùng tôi giải tội cho anh”.
Nhiều tháng qua đi, tội nhân lại đến quì dưới chân linh mục cũng bên dưới cây thánh giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này, vị linh mục đã dứt khoát, và trả lời: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội cho anh nữa”.
Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước từ tội nhân, thì bỗng ngài bàn tay phải của Chúa Giêsu rút ra khỏi thánh giá và ban phép lành cho hối nhân. Cùng lúc đó, vị linh mục nghe được tiếng Chúa: “Chính Ta là người đã đổ máu ra cứu người này, chứ không phải con”.
Từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu cứ ở mãi trong tư thế ấy, như không ngừng mời gọi con người đến lãnh nhận tình yêu hải hà, lòng tha thứ vô biên của vị mục tử nhân lành.
Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết cậy trông phó thác vào Chúa và không bao giờ ngã lòng về lòng thương xót vô biên của Chúa. Amen
E/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
Đức Giêsu Chúa chiên nhân lành (Ga 10, 1-10)
1. Bài Tin mừng hôm nay trình bày Đức Giêsu là cửa chuồng chiên:
– “Ai không qua cửa chuồng chiên mà vào thì là quân trộm cướp”: Đức Giêsu ám chỉ những người biệt phái và luật sĩ. Họ không được Thiên Chúa ủy nhiệm, họ chỉ giành quyền lãnh đạo tôn giáo, không phải mưu cầu lợi ích cho dân, mà để tìm vinh dự và quyền lợi riêng.
– “Ta là cửa chuồng chiên”: Đức Giêsu là mục tử đích thật của dân. Ngài đi vào đường hoàng, được người canh gác mở cửa cho, gọi tên từng con chiên, chiên quen tiếng nên đi theo, Ngài dẫn chúng đi ăn.
2. Nhiều người đã nghe Đức Giêsu giảng và xem nhiều phép lạ. Họ chỉ hiểu một phần nào giáo lý của Ngài, nhưng chưa nhìn ra con người thật của Ngài. Câu hỏi “Ngài là ai?” phải được đặt ra. Tuy nghe Đức Giêsu giảng và làm phép lạ như vậy, nhưng họ vẫn nghi ngờ về thân thế, uy quyền và sứ mạng của Ngài.
Để nói lên sứ mạng của Ngài, Đức Giêsu đã đưa ra một dụ ngôn về người mục tử tốt lành. Người mục tử biết lo cho con chiên, tha thiết với đàn chiên, hiệp thông với đàn chiên, quên bản thân mình và sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đàn chiên. Đức Giêsu tự nhận lấy danh hiệu ấy cho mình khi Ngài nói với họ: “Ta là mục tử nhân lành” (Ga 10, 14).
3. “Ta là cửa chuồng chiên”
Đức Giêsu còn xác định Ngài là cửa chuồng chiên để bảo vệ đàn chiên. Hình ảnh này hơi khó hiểu đối với chúng ta vì phong tục nuôi chiên của người Palestine khác với chúng ta.
Trong cuốn “The Holy Land”: vùng đất thánh, tác giả John Kellman mô tả: chuồng chiên ở Do thái có một bức tường bằng đá chung quanh cao khoảng bốn bộ (cỡ 1m4) và một lối vào. Ngày nọ một du khách Thánh địa đã trông thấy một cái chuồng chiên ngoài đồng gần Hebron. Người du khách hỏi người mục tử đang ngồi cạnh đó: “Cửa chuồng của anh đâu?” Người mục tử liền đáp: “Tôi chính là cửa chuồng”. Đoạn người mục tử kể cho du khách nghe biết, ban đêm anh ta nằm chặn ngang lối vào chật hẹp đó. Không có con chiên nào có thể bỏ chuồng đi ra, và cũng chẳng có con thú rừng nào có thể đi vào mà không bước qua mình anh ta.
4. “Khi sói đến, người làm thuê bỏ chiên mà trốn”
Đức Giêsu khẳng định “Ta là mục tử tốt lành”, do đó Ngài đã quên bản thân mình, để phục vụ lợi ích của dân chúng và sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đàn chiên.
Trong quyển “The land and the Book”, Thomas Thompson có ghi lại câu chuyện bi đát như sau: Một ngày nọ có một chàng mục đồng trẻ tuổi dẫn đàn súc vật đi về vùng lân cận ngọn núi Thabor. Bỗng có ba tên cướp đường người Ả rập xuất hiện. Chàng thanh niên biết rõ chàng sẽ gánh chịu những hậu quả khôn lường, thế nhưng chàng đã không bỏ trốn. Chàng kiên cường chiến đấu, để giữ cho bầy súc vật của chàng khỏi rơi vào tay lũ thổ phỉ. Đoạn cuối được kết thúc bằng cái chết liều mạng của chàng thanh niên cho đàn chiên của chàng.
5. “Anh đi trước và chiên đi theo anh”.
Hình ảnh người chăn chiên đi trước và đàn chiên theo sau thật đẹp. Điều đó nói lên sự hiệp nhất giữa chủ chăn và đàn chiên, chiên nghe theo chủ chăn và do đó, chỉ có một chủ chiên và một đàn chiên.
Hiệp nhất vốn là dấu chỉ của tình yêu. Đức Giêsu mượn hình ảnh người mục tử không ngừng đi tìm kiếm những con chiên lạc, để nói lên mối quan tâm của Ngài đối với Giáo hội. Đó chính là chúc thư Ngài để lại trong những giây phút cuối đời.”Xin cho chúng nên một”, “một đàn chiên và một chủ chiên”: đó là hình ảnh của sự hiệp nhất mà Đức Giêsu luôn quan tâm đến. Hình ảnh người mục tử đi tìm kiếm những con chiên lạc cũng nói lên tất cả mối tương quan của Thiên Chúa đối với con người: không phải con người đi tìm kiếm Thiên Chúa cho bằng chính Thiên Chúa đi tìm kiếm con người. Mọi cố gắng của con người xét cho cùng cũng đều là những lôi kéo của Thiên Chúa.
6. Truyện: Theo anh là thủ lãnh
Một nhà thám hiểm xứ Soudan đã tháo xiềng xích cho một tên nô lệ 12 tuổi. Rồi săn sóc dạy dỗ như con, thằng nhỏ đem lòng mến phục vị đại ân nhân.
Giờ thực hiện cuộc mạo hiểm đầy gian nguy đã đến. Nhà thám hiểm không muốn cưỡng bách em bé theo mình. Ông nói:
– Này em, anh sắp lên đường đến miền xa lạ. Cuộc hành trình rất mực cam go: Đường đi xa xôi, hành lý nặng nề, nước uống đồ ăn thiếu thốn, những mũi tên tẩm thuốc độc vù vù bên tai, rừng nhiều thú dữ… Em ở lại hay theo anh? Nếu em theo anh, chúng ta cùng nhau cực nhọc, khi thiếu nước, thiếu ăn, anh cũng chịu khát, nhịn đói như em, việc em vẫn nhẹ hơn việc anh. Bây giờ tuỳ em quyết định.
Em bé nhìn sâu vào mắt nhà thám hiểm, lúc này đã thành người anh, người bạn và nói:
– Theo anh là thủ lãnh của em.
Thế là em nhỏ theo anh lên đường. Những quãng đường dài cực nhọc, những ngày nắng không nước, em bé lần lượt nếm cả, chân nứt nẻ máu me, nhưng không coi sao, vì lòng vẫn hăng hái khi thấy người thủ lãnh sốt rét bị thương mà vẫn đi hàng đầu. Sức chịu đựng của con người có giới hạn, mà nguy hiểm vất vả lại cứ tăng, nhiều bạn đồng hành bỏ cuộc. Nhà thám hiểm vừa thương hại, vừa để thử lòng, hỏi em bé:
– Em có bỏ không?
Lời thưa đầy hăng hái:
– Em đã chẳng hứa với anh sao?
Sáu tháng trời qua đi, cuộc thám hiểm thành công rực rỡ. Đàng sau người thủ lãnh tươi như hoa nở, em nhỏ đứng hiên ngang đón nhận những lời hoan hô vang dội.