Ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy.
BÀI ĐỌC 1: 2 Sm 7,4-5a.12-14a.16
Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người.
Bài trích sách Sa-mu-en quyển thứ hai.
4 Hồi ấy, có lời Đức Chúa phán với ông Na-than rằng :
5a “Hãy đi nói với tôi tớ của Ta là Đa-vít : Đức Chúa phán thế này : 12 Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi -một người do chính ngươi sinh ra-, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. 13 Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính danh Ta, và Ta sẽ làm cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. 14a Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con. 16 Trước mặt Ta, nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ muôn đời bền vững, và ngai vàng của ngươi sẽ được củng cố đến muôn đời.”
ĐÁP CA: Tv 88,2-3.4-5.27 và 29 (Đ. c.37)
Dòng dõi Người sẽ trường tồn vạn kỷ.
1/ 2Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng,
qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài.
3Vâng con nói : “Tình thương ấy được xây dựng tới thiên thu,
lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời.”
2/ 4Xưa Chúa phán : “Ta đã giao ước với người Ta tuyển chọn,
đã thề cùng Đa-vít, nghĩa bộc Ta,
5rằng : dòng dõi ngươi, Ta thiết lập cho đến ngàn đời,
ngai vàng ngươi, Ta xây dựng qua muôn thế hệ.”
3/ 27Người sẽ thưa với Ta : “Ngài chính là Thân Phụ,
là Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con được cứu độ !”
29Ta sẽ yêu thương Người đến muôn thuở
và thành tín giữ giao ước với Người.
BÀI ĐỌC 2: Rm 4,13.16-18.22
Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin.
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi tín hữu Rô-ma.
13 Thưa anh em, không phải chiếu theo Lề Luật, mà Thiên Chúa đã hứa cho ông Áp-ra-ham và dòng dõi ông được thế gian làm gia nghiệp ; nhưng ông được lời hứa đó, vì đã trở nên công chính nhờ lòng tin. 16 Bởi vậy, vì tin mà người ta được thừa hưởng lời Thiên Chúa hứa ; như thế lời hứa là ân huệ Thiên Chúa ban không, và có giá trị cho toàn thể dòng dõi ông Áp-ra-ham, nghĩa là không phải chỉ cho những ai giữ Lề Luật, mà còn cho những ai có lòng tin như ông. Ông là tổ phụ chúng ta hết thảy, 17 như có lời chép : Ta đã đặt ngươi làm tổ phụ nhiều dân tộc. Ông là tổ phụ chúng ta trước mặt Thiên Chúa, Đấng ông tin tưởng, Đấng làm cho kẻ chết được sống và khiến những gì không có hoá có.
18 Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán : Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo như thế. 22 Bởi vậy, ông được kể là người công chính.
TIN MỪNG: Mt 1,16.18-21.24a
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
16 Ông Gia-cóp sinh ông Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a, bà là mẹ Đức Giê-su cũng gọi là Đấng Ki-tô.
18 Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô : bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần.
19 Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo.
20 Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: “Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.
21 Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.”
24a Khi tỉnh giấc, ông Giu-se làm như sứ thần Chúa dạy.
SUY NIỆM
A/ 5 phút với Lời Chúa
GIU-SE, CON NGƯỜI LẮNG NGHE
“Này ông Giu-se, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần.” (Mt 1,20)
Suy niệm: Trong trường hợp của thánh Giu-se, câu ngạn ngữ “Nghe nhiều thêm khôn ngoan, nói nhiều hối hận nhiều” như thể đúc kết đời sống thinh lặng và sự khôn ngoan của ngài. Tuy chỉ có hai tác giả Tin Mừng đề cập đến thánh Giu-se, nhưng vẫn không một lời nào của ngài được thuật lại. Dĩ nhiên, ngài vẫn dạy dỗ và chơi đùa với trẻ Giê-su, vẫn trò chuyện với Ma-ri-a, vẫn hàn huyên với hàng xóm láng giềng, với những người đến nhờ làm nhà cửa, bàn ghế. Nhưng trong mọi trường hợp, ngài luôn lắng nghe, đặc biệt lắng nghe lời Thiên Chúa. Các tác giả Tin Mừng đã thuật lại tỉ mỉ những sự kiện sứ thần của Thiên Chúa đến nói cho biết mầu nhiệm và sự quan phòng của Thiên Chúa và thánh Giu-se lắng nghe. Ngài lắng nghe và đón nhận Ma-ri-a, chăm sóc trẻ Giê-su. Ngài lắng nghe đưa gia đình lánh sang Ai Cập và biết thời điểm trở về. Ngài sẵn sàng đón nhận ý Chúa trong sự thinh lặng vâng phục. Gương sáng của ngài và Mẹ Ma-ri-a, những người suy đi nghĩ lại lời Chúa trong lòng để vâng theo, là mẫu gương đào tạo trẻ Giê-su trở nên người luôn vâng phục cha mẹ, nhất là chu toàn ý Chúa Cha. Còn sự khôn ngoan nào hơn sự thinh lặng vâng phục ý Chúa?
Mời Bạn: Mùa Chay là dịp chúng ta tập thinh lặng suy niệm và tìm biết thánh ý Chúa để sống. Mẫu gương cụ thể của thánh Giu-se giúp chúng ta tập luyện việc thinh lặng lắng nghe tiếng Chúa.
Sống Lời Chúa: Dành thời gian mỗi ngày để thinh lặng suy niệm Lời Chúa.
Cầu nguyện: Đọc hoặc hát: “Lạy Chúa, xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài dạy con trong đêm tối…”
B/ Lm. Phaolô Vũ Đức Vượng
Thứ ba Tuần V Mùa Chay
LỄ THÁNH GIUSE
Mt 1, 16. 18-21. 24a
Khi nói đến Thánh Giuse, Kinh Thánh thường đặt cho Ngài cái danh hiệu là NGƯỜi CÔNG CHÍNH. Vậy thì Ngài đã sống thế nào để được gọi là người công chính?
Đọc toàn bộ kinh thánh Tân ước, chúng ta thấy rất ít chỗ nhắc đến Thánh Giuse. Ngài sống thật âm thầm lặng lẽ. Âm thầm đến nỗi dù có tìm mấy chăng nữa, người ta cũng không gặp đuợc một lời nói nào thốt lên từ miệng Ngài. Ngay cả những lúc Ngài băn khoăn xao xuyến nhất, những lúc mà theo lẽ thường tình, con người cần bộc lộ cảm nghĩ của mình, cần sự chia sẻ hoặc cần những lời góp ý. Chẳng hạn băn khoăn khi thấy Đức mẹ mang thai. Âu lo vì lạc mất con… thì Ngài cũng chỉ lặng lẽ tìm kiếm. Rồi khi nhận được lời hướng dẫn của sứ thần báo mộng, thì Ngài âm thầm tuân theo, không cần phải thắc mắc, không cần phải tìm hiểu.
Tuy nhiên, cách sống âm thầm của Thánh Giuse không phải là một thúc thủ trước những nghịch cảnh, không phải là một buông xuôi cho hoàn cảnh đưa đẩy, muốn ra sao thì ra. Không phải vậy. Nhưng âm thầm của Thánh cả là một âm thầm đầy tin tưởng vào Thiên Chúa. Ngài không tỏ lộ gì ra bên ngoài vì Ngài đã tin chắc rằng đó là chương trình của Thiên Chúa. Và đã là chương trình của Thiên Chúa thì cần gì phải thắc mắc? Cần gì phải tìm hiểu, cứ việc nhắm mắt mà thi hành.
Đó, công chính nó ở chỗ đó. Biệt hiệu Công Chính của Thánh Giuse là thừa hưởng danh hiệu của Abraham trong cựu ước. Cựu ước cũng gọi Abraham là người công chính. Thì cũng như Abraham đã đặt hết tin tưởng vào Thiên Chúa, mặc dù trước mắt toàn là mây mù che phủ, nhưng tin chắc rằng Chúa đã hứa thì Chúa sẽ có cách thực hiện. Tin như vậy nên Abraham được gọi là người công chính. Thì trong Tân Ước, Biệt hiệu người công chính cũng được đặt cho Giuse, Vì Giuse cũng có một niềm tin vững mạnh như Abraham.
Trong ngày mừng kính Thánh Giuse hôm nay, xin cho mỗi người chúng ta được noi gương Ngài để đổi mới cuộc đời mình trong mùa chay Thánh này. Xin cho chúng ta được biết tìm về ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Có những việc âm thầm không ai biết đến nhưng Thiên Chúa vẫn thấy, và chỉ cần Thiên Chúa thấy là đủ. Những lúc tâm hồn băn khoăn xao xuyến vì không tìm được giải pháp cho vấn đề trước mắt, xin cho chúng ta được luôn bắt chước Thánh Giuse, là xác tín rằng Thiên Chúa sẽ giải đáp, vì Ngài đang thấy nhu cầu của ta và Ngài luôn yêu thương săn sóc ta.
C/ Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
THÁNH GIUSE TRUNG THÀNH VỚI SỨ MẠNG
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Giuse hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã giao phó Đức Giêsu cho thánh Cả Giuse, và thánh nhân đã trung thành gìn giữ trong giai đoạn đầu của công trình cứu độ. Xin Chúa nhậm lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà ban cho Hội Thánh biết luôn luôn cộng tác với Đức Giêsu, để hoàn tất công trình Người đã khởi đầu.
Trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thư gửi tín hữu Hípri đã cho thấy lòng trung thành của các thánh tổ phụ từ Aben đến Ápraham: Các ngài đã chẳng mất niềm tin, chẳng chút nghi ngờ lời Thiên Chúa hứa, trái lại, nhờ niềm tin, các ngài đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa. Đức tin hợp tác với hành động của các ngài, và nhờ hành động, mà đức tin nên hoàn hảo. Bởi thế, ông được kể là người công chính.
Trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Bênađinô Xiêna đã cho thấy: Chúa Cha hằng hữu đã chọn thánh Giuse, để thánh nhân trung thành dưỡng nuôi, và gìn giữ Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, và Đức Maria hiền thê của thánh nhân. Đây là hai kho tàng quý giá nhất của Người. Thánh nhân đã chu toàn nhiệm vụ ấy cách rất trung thành. Vì thế, thánh nhân xứng đáng được thừa hưởng lời hứa: Hỡi người tôi tớ tài giỏi và trung thành, hãy vào hưởng niềm vui của chủ.
Ca Nhập Lễ: Đây là người quản gia trung tín và khôn ngoan, Chúa đã đặt lên coi sóc gia đình Chúa. Chúng ta phải trung tín, bởi vì, Thiên Chúa luôn trung thành, giao ước đã lập ra muôn đời Người nhớ mãi, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Samuen quyển thứ hai đã cho thấy: Lời hứa mà Thiên Chúa dành cho Đavít, là giao ước vĩnh cửu, bền vững muôn đời, không gì lay chuyển được.
Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 88, vịnh gia đã ca ngợi lòng trung tín của Thiên Chúa: Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài. Vâng con nói: “Tình thương ấy được xây dựng tới thiên thu, lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời.” Trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô đã cho thấy lòng trung thành vững vàng của Ápraham: Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo như thế.
Thiên Chúa là Đấng trung tín, những ai trung thành tuân giữ Lời của Người, thì thật là có phúc, như câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay: Lạy Chúa, phúc thay người ở trong thánh điện, họ luôn luôn được hát mừng Ngài. Trong bài Tin Mừng, thánh Mátthêu cho thấy: Lòng trung thành của thánh Giuse được thể hiện qua việc: Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy. Thánh Giuse trung thành với sứ mạng, khi cúc cung, tận tụy, chăm lo cho Đức Giêsu và Mẹ Maria. Là con dòng Đavít trâm anh, ngài chẳng nề vất vả làm nghề thợ mộc để nuôi sống gia đình. Nhờ luôn trung thành với sứ mạng Chúa giao, mà lời chuyển cầu của ngài rất mạnh thế, đến nỗi, thánh Têrêsa nói: ở trên trời, thánh Giuse ra lệnh hơn là van xin, bởi vì, Đức Giêsu sẽ không nỡ từ chối, một khi, Người nhìn thấy đôi bàn tay: ngày nào đã ẵm bồng, cưa bào, đục đẽo, lao động vất vả để nuôi dạy mình, giờ đây, giơ ra để cầu thay nguyện giúp cho đoàn con bé nhỏ. Ước gì chúng ta cũng biết bắt chước thánh Cả, luôn trung thành tuân giữ những gì Chúa dạy, để khi cuối đời, chúng ta cũng sẽ nhận được lời Chúa nói, như lời Ca Hiệp Lễ hôm nay: Hỡi gia nhân tài giỏi và trung tín, hãy vào chung hưởng phúc lạc với chủ nhân! Ước gì được như thế!
D/ Lasan Ngô Văn Vỹ, O.Cist.
THÁNH GIUSE ĐẤNG ĐẦY UY QUYỀN
Hợp với Hội Thánh toàn cầu chúng ta long trọng mừng kính Thánh Giuse Bạn Trăm Năm Của Đức Trinh Nữ Maria, đấng đặc trách bảo vệ Hội Thánh hoàn vũ, đấng bảo trợ cho giới công nhân, cho các người cha, và cho mọi người được ơn chết lành. Năm 1870, theo lời thỉnh cầu của hàng Giám mục thế giới đang tham dự công đồng Vaticanô I, Đức Giáo hoàng Piô IX đã long trọng công bố tôn phong Thánh Giuse làm quan thầy toàn thể Hội Thánh vào ngày 19 tháng 3. Và từ đó, ngày 19/3 dương lịch hàng năm trở thành lể kính thánh Giuse, Bạn thanh sạch Đức Trinh Nữ và quan thầy của Hội Thánh. Đặc biệt, Thánh Giuse là bổn mạng Hội Thánh Công giáo Việt Nam thân yêu của chúng ta, và là bổn mạng của nhiều cộng đoàn thánh hiến, nhiều hội đoàn, xứ đoàn, nhiều quý ông quý anh.
Thánh Giuse đã được nhận làm bổn mạng Hội Thánh Công Giáo Việt Nam của chúng ta từ thời nào? Thưa, ngay thời kỳ đầu, khi các linh mục Dòng Tên đến truyền giáo trên quê hương đất nước chúng ta. Việc nhận thánh Giuse làm bổn mạng bắt nguồn từ một biến cố lịch sử trọng đại. Vào thế kỉ 17, khi đất nước chúng ta lâm vào hoàn cảnh nội chiến giữa hai phe một bên là vua Lê – chúa Trịnh và bên kia là chúa Nguyễn, lãnh thổ bị phân chia thành hai miền Đàng Trong và Đàng Ngoài: Đàng Trong do nhà Nguyễn, còn Đàng Ngoài do nhà Lê cai quản. Trong bối cảnh chính trị phức tạp đó, cha Alexandre de Rhodes và cha Marquez, đang ở Đàng Trong (Miền Nam) phải đi vòng qua Macao để ra đất Bắc (Đàng Ngoài), các ngài đã phó thác hành trình gian nan này cho thánh Giuse bảo trợ, nhờ lời khấn thánh Giuse, hai cha đã cập bến an toàn, tại cửa Bạng – Thanh Hóa, đúng vào ngày 19-3-1627, ngày lễ kính thánh Giuse.
Hôm ấy, hai cha đã dâng thánh lễ đầu tiên trên đất Bắc tạ ơn thánh Giuse và phó thác công cuộc truyền giáo tại đất Bắc cho Thánh Giuse chăm sóc giữ gìn. Đến ngày 17/08/1678 Đức Giáo Hoàng Innocentê XI đáp lại thỉnh nguyện của ba vị Đại diện Tông toà, tôn nhận thánh Giuse là quan thầy của Hội Thánh Công giáo Việt Nam. Và một lần nữa, chính HĐGM Việt Nam, ngày 11/10/1997, tái xác nhận Thánh Cả Giuse là quan thầy đệ nhất của Hội ThánhCông giáo Việt Nam; cậy nhờ ngài che chở Giáo hội, đồng thời kêu gọi mọi kitô hữu noi theo đời sống thánh thiện của ngài.
Nói về đời sống công chính thánh thiện của Thánh Giuse, Đức thánh cha Lêô XIII ca tụng rằng: “Sau Đức Maria, không ai có được vinh quang ân sủng và sự thánh thiện bằng Thánh cả Giuse”. Sự thánh thiện của thánh nhân có hai nền tảng chắc chắn trong Kinh Thánh:
Trước hết, Kinh Thánh gọi ngài là đấng “công chính”, chữ công chính theo Cựu Ước ý nói đến việc vâng giữ điều răn của Thiên Chúa cách hoàn hảo. Thứ đến, các sách Tin Mừng cho chúng ta biết Thánh Giuse đã thực hành nhiều nhân đức tới mức độ anh hùng: ngài tin lời Chúa nói qua sứ thần, và mau mắn chu toàn thánh theo thánh ý Chúa dù trong hoàn cảnh éo le (Mt 1,24), rồi hết sức bác ái tế nhị, không muốn tố cáo Đức Maria (Mt 1,19). Ngài cùng chia sầu cộng khổ với Đức Maria sinh Chúa Giêsu tại Bêlem, trốn sang Ai cập, lạc mất Chúa trong Đền thờ, cũng chính Ngài dùng sức lao động của mình chăm lo mọi nhu cầu của Thánh Gia thất.
Quả thật, Thánh Giuse là kho tàng nhân đức. Thành ra, cha Thánh Giuse thực là cha thiêng liêng của tất cả chúng ta trên con đường nên thánh. Trong tình yêu Thiên Chúa nồng nàn, ngài có thần thế để trợ giúp chúng ta, đúng như lời thánh Têrêsa Avila: “Trên trời Thánh Giuse truyền lệnh hơn là van xin”.
Mừng kính thánh Giuse trong Mùa Chay thánh này, xin cho chúng ta biết noi gương ngài luôn luôn: tin cậy Chúa, mau mắn thực thi thánh Ý Chúa, thương yêu bác ái, chu toàn bổn phận làm chồng, làm cha, làm mẹ, làm con ngoan, luôn vun đắp cho gia đình được hạnh phúc an vui giữa cuộc đời này.
Nguyện xin Thánh cả Giuse quyền cao sang, rầy đang no đầy ân phúc trên Thiên Đàng, cứu giúp chúng con thế trần lầm than, ngày đêm mong về quê yên vui phúc nhàn.
E/ Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
LỄ THÁNH GIUSE, BẠN ĐỨC TRINH NỮ
Kinh thánh đã xác nhận thánh Giuse “là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19). Khi gọi Giuse là người công chính, và nhìn vào cuộc sống của Ngài, chúng ta có thể hiểu được nội dung của từ công chính ấy.
Theo nghĩa thông thường: từ “công chính” có nghĩa là “công bình”, nghĩa là trả lại cho người khác những gì thuộc về họ. Nói khác đi, công chính là không dám nhận những gì không phải là của mình. Thánh Giuse định trốn đi khi biết Đức Maria đã mang thai.
Theo lời giải thích xưa kia thì thánh Giuse trốn đi vì nghi ngờ Đức Maria bất trung. Nhưng theo các nhà chú giải mới thì thánh Giuse định bỏ trốn, vì thấy mình không xứng đáng với danh hiệu làm Cha Đấng Cứu Thế. Chức vị làm Cha Đấng Cứu Thế là một chức vị quá cao trọng, thánh Giuse thấy mình không phải là Cha Đấng Cứu Thế, không xứng đáng làm Cha Đấng Cứu Thế, nên Ngài bỏ trốn.
Theo nghĩa đạo đức: trước sự kiện Đức Maria thụ thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần, mặc dù không hiểu và định tâm rút lui trong âm thầm, để thực hiện kế “đào vi thượng sách” khôn ngoan, nhưng một khi đã được mạc khải cho biết sứ mạng “Cha nuôi” của mình thì Giuse đã mau mắn rước mẹ con Đức Maria về nhà mình.
Nhiệm vụ của thánh Giuse là gìn giữ Đức Giêsu và Đức Maria. Chúa đã trao cho Ngài nhiệm vụ đó và Ngài đã hết sức chu toàn. Chu toàn với tinh thần trách nhiệm cao, không để xảy ra chuyện gì đáng tiếc. Chu toàn với sự tinh tế, kính cẩn, nâng niu. Hãy nhìn cảnh Thánh gia trốn sang Ai cập, Đức Maria bế Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa. Thánh Giuse dắt lừa đi trong đêm tối. Không còn cảnh tượng nào đẹp hơn. Thánh Giuse trân trọng kho tàng Chúa trao cho Ngài gìn giữ. Thánh Giuse kính cẩn nâng niu Đức Maria và Đức Giêsu. Ngài chu toàn nhiệm vụ với tinh thần dấn thân hy sinh không ngại gian khổ. Đang đêm mà Chúa báo thức dậy trốn sang Ai cập, Ngài cũng thức dậy lên đường tức khắc.
Ngài là một gia trưởng: thánh Giuse được Chúa trao cho nhiệm vụ coi sóc Đức Giêsu và Đức Maria, gìn giữ gia đình, Ngài đã hết sức chu toàn trong mọi hoàn cảnh trong lúc thuận tiện cũng như trong hoàn cảnh khó khăn.Theo pháp lý, thánh Giuse là Bạn trăm năm của Đức Maria, Ngài là chồng thực sự, mặc dầu không ăn ở với nhau. Ngài cũng phải là Cha của Đức Giêsu mặc dù chỉ là cha nuôi. Cả ba vị đã làm thành một gia đình thực thụ. Người ta thường nói: “Kim chỉ phải có đầu” (Tục ngữ), như vậy trong gia đình Nazareth thì đương nhiên thánh Giuse phải là gia trưởng, và Đức Maria và Đức Giêsu phải vâng lời Ngài với tư cách Ngài là gia trưởng.
Người cha là mái hiên che chắn cho gia đình trước bao giông tố của cuộc đời. Người cha chấp nhận những gian khổ cuộc đời để nuôi dưỡng gia đình.
Ngài là người cộng tác âm thầm trong công cuộc cứu thế, với vai trò thật mờ nhạt. Kinh Thánh chỉ nhắc đến Ngài với tư cách là một bác thợ mộc ở Nazareth và là cha của ông Giêsu, thế thôi, rồi Ngài rút vào bóng tối không ai biết đến nữa. Nhưng công dưỡng dục vào bảo vệ thánh gia, được thánh tiến sĩ Bênađô ghi nhận: “Thiên Chúa Cha chọn thánh Giuse không những để làm người an ủi Đức Maria khi gặp gian truân và để làm Cha nuôi Chúa Con mà còn để thánh nhân cộng tác vào công trình của Chúa Cứu Thế là công việc chung cả Ba Ngôi Thiên Chúa”.
Ngài là đầy tớ trung thành: nếu ơn gọi phát xuất từ sáng kiến của Thiên Chúa và nỗ lực của bản thân để đáp trả lời mời gọi, thì qua bài Tin mừng hôm nay, chiêm ngưỡng thánh Giuse trong dáng dấp “người công chính” cũng cho thấy Thánh Giuse là tôi tớ trung tín một đời, sẵn sàng vâng nghe tiếng gọi và mau mắn thi hành, như một đầy tớ vô dụng, tất cả đều cậy nhờ vào Thiên Chúa (Lc 17,10), sẵn sàng bỏ ý riêng làm theo ý Chúa để cộng tác vào công trình cứu độ của Thiên Chúa.
Ngài có thần thế trước toà Chúa: ngày xưa vua Pharaon nói với dân chúng: “Ite ad Joseph”: hãy đến cùng Giuse, tiên báo Giuse ngày nay: không phải chỉ ban phát gạo thóc mà là muôn ơn. Thánh Giuse có thần thế trước mặt Chúa. Cảm nghiệm điều đó, thánh nữ Têrêsa Avila đã nói: “Tôi thấy không lần nào xin sự gì cùng thánh Giuse mà không được như ý, ngài giúp chúng ta trong mọi trường hợp”.